Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của LLVT trước yêu cầu mới

24/02/2014 03:05:00 PM

(Canhsatbien.vn) - 

Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết 152-NQ/ĐUQSTW của Quân ủy Trung ương (QUTƯ), công tác dân vận (CTDV) của lực lượng vũ trang (LLVT) đã được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt hiệu quả thiết thực. Nội dung CTDV có trọng tâm, trọng điểm, hình thức đa dạng, phong phú, xác định được mô hình phù hợp với yêu cầu của thực tiễn; bám sát nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương và tình hình địa bàn. Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị đã chủ động tham mưu, đề xuất, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Các đội công tác 123, đội vận động quần chúng và cán bộ tăng cường cơ sở của Bộ đội Biên phòng ở địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động đồng bào định canh, định cư, xây dựng thôn, bản văn hóa, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm; không sinh hoạt đạo trái pháp luật, tàng trữ vũ khí, buôn bán ma túy, tái trồng cây thuốc phiện; nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá cách mạng. Đồng thời, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu lực quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền, hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể các cấp; tham mưu, phối hợp thực hiện tốt công tác quốc phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, nâng cao chất lượng chính trị của lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên (1).

Thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác”, các đơn vị đã chủ động tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ, xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe nhân dân và làm tốt vai trò nòng cốt, đi đầu trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn… Qua thực tiễn tiến hành CTDV, xuất hiện nhiều mô hình sáng tạo, hiệu quả, như: “Gắn kết hộ người kinh với hộ đồng bào dân tộc thiểu số giúp nhau phát triển kinh tế gia đình” của Binh đoàn 15; “Xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo”, “Hũ gạo vì người nghèo” của Quân khu 5; chương trình “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”, “Ngân hàng bò” của Bộ đội Biên phòng; “Tiểu đội nữ dân quân tham gia giải quyết điểm nóng” của LLVT Bến Tre; “Tuyến ống lòng dân” của Cục Xăng dầu… CTDV đã góp phần quan trọng vào thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường mối quan hệ đoàn kết gắn bó quân - dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân đội (2). Qua đó, xây dựng và phát triển nhân cách, rèn luyện tư tưởng, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, tính kỷ luật cho cán bộ, chiến sĩ; làm sáng ngời hình ảnh cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.

 

Cán bộ Đồn Biên phòng Tả Gia Khâu (Lào Cai) hướng dẫn đồng bào trồng cây gây rừng. (ảnh: Biên Phòng)

Tuy vậy, so với yêu cầu, việc thực hiện Nghị quyết 152/NQ-TW của QUTƯ vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Đó là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, cán bộ chủ trì đối với CTDV chưa được quan tâm đúng mức; công tác nắm, dự báo tình hình, tham mưu, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương trong tiến hành CTDV, nhất là trong giải quyết các vụ việc phức tạp, quản lý đất quốc phòng có lúc, có nơi chưa sát, thiếu nhạy bén. Nội dung, biện pháp CTDV ở một số đơn vị chưa phong phú, thiếu chiều sâu; phương thức hoạt động chưa thật đổi mới và mang tính đột phá. Năng lực, kiến thức, tác phong công tác, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ làm CTDV về kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, phong tục, tập quán, tiếng dân tộc có mặt còn hạn chế. Kỷ luật dân vận chưa chuyển biến vững chắc; còn để xảy ra vụ việc nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống của quân đội… Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy một số đơn vị về vị trí, vai trò của CTDV chưa đầy đủ; tinh thần trách nhiệm trong tiến hành CTDV của một số cán bộ, chiến sĩ chưa trở thành ý thức, hành động tự giác; việc kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng, thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ dân vận có nơi chưa kịp thời...

Thời gian tới, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để xuyên tạc, kích động, lôi kéo, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và quân đội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lợi dụng những phức tạp về quản lý đất đai, quản lý xã hội để chống phá ta quyết liệt hơn. Tình hình biên giới, biển, đảo, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Đời sống của một bộ phận nhân dân và cán bộ, chiến sĩ còn khó khăn… Điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện CTDV của LLVT. Vì thế, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị phải nhận thức đúng tình hình, bám sát định hướng của trên, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, với những chủ trương biện pháp phù hợp; trong đó, tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đóng vai trò quyết định đến hiệu quả CTDV của LLVT. Xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, nhất là đối với CTDV; coi đó là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của LLVT. Trên cơ sở đó, phát huy tốt vai trò của “đội quân công tác” trong tình hình mới, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, quân đội, tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân - dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để làm được điều đó, các cấp ủy trong quân đội phải tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về công tác xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03/CT-TW của Bộ Chính trị (khóa XI); kiên quyết khắc phục những khuyết điểm đã chỉ ra, xây dựng lối sống trong sạch, lành mạnh, tác phong gần gũi, sâu sát cơ sở, địa bàn, gắn bó với nhân dân của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, nhất là những người trực tiếp làm CTDV. Đồng thời, thực hiện tốt Chỉ thị 590/CT-ĐUQSTW của QUTƯ về “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong quân đội”; nâng cao chất lượng sinh hoạt chính trị, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, phát hiện và giải quyết kịp thời các vướng mắc nảy sinh trong quan hệ nội bộ và quan hệ quân - dân. Thông qua giáo dục, tăng cường xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội; kiên quyết đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và các luận điệu xuyên tạc, kích động chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước, quân đội với nhân dân, góp phần xây dựng đơn vị, địa phương vững mạnh toàn diện.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về vị trí, vai trò CTDV của LLVT trong tình hình mới. Thực tiễn chỉ ra rằng, những thành công và khuyết điểm trong CTDV đều xuất phát trước hết từ nhận thức. Bởi vậy, muốn đạt được kết quả cao trong hoạt động, các đơn vị phải làm tốt công tác giáo dục, định hướng tư tưởng, nâng cao nhận thức cho các đối tượng về sự cần thiết phải tăng cường CTDV trong tình hình hiện nay. Đặc biệt, toàn quân phải quán triệt sâu sắc Nghị quyết 25/NQ-TW (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV trong tình hình mới”, Chương trình hành động của QUTƯ thực hiện Nghị quyết 25/NQ-TW và Chương trình hành động của BQP thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2013 - 2020, gắn với đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị. Phát huy kết quả đạt được sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 152/NQ-ĐUQSTW của QUTƯ, các cấp ủy cần đề cao trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là lãnh đạo, chỉ huy các cấp, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả CTDV. Trong quá trình thực hiện, các đơn vị cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng; gắn phong trào Thi đua Quyết thắng của đơn vị với phong trào thi đua yêu nước của địa phương và phong trào thi đua “Dân vận khéo”; nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trên mọi lĩnh vực. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội” gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, với tinh thần “Ở đâu có bộ đội, ở đó có CTDV”; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; khắc phục những biểu hiện vô cảm, thiếu trách nhiệm trong tiến hành CTDV, vi phạm kỷ luật trong quan hệ quân - dân...

Ba là, bám sát cơ sở, tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức CTDV của LLVT phù hợp với từng địa bàn và từng loại hình đơn vị. CTDV của các cơ quan, đơn vị phải hướng mạnh về cơ sở, được cụ thể hóa bằng các chương trình làm việc thiết thực, hiệu quả, xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, phù hợp với điều kiện địa bàn, nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Hình thức CTDV phải được đổi mới, đa dạng hóa, phù hợp với tâm lý, bản sắc, phong tục, tập quán của địa phương; tiếp tục duy trì, mở rộng hoạt động kết nghĩa, huấn luyện dã ngoại kết hợp làm CTDV; củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của “Tổ CTDV”; phát huy vai trò của dân quân tự vệ làm CTDV, các tổ, đội công tác liên ngành ở các địa bàn và cán bộ tăng cường cơ sở, nhất là các đồng chí tham gia cấp ủy, chính quyền và Hội đồng nhân dân các cấp. Để làm được điều đó, LLVT khi tiến hành CTDV phải bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình, chủ động tham mưu, đề xuất, nghiên cứu, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh; chú trọng đổi mới nội dung, phương thức, biện pháp CTDV vùng đô thị, các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Mặt khác, phải phát huy vai trò của quân đội tham gia giải quyết vụ việc phức tạp ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo và các “điểm nóng” nảy sinh theo đúng chức năng, nhiệm vụ; nghiên cứu, tham mưu, bổ sung, hoàn thiện cơ chế phối hợp hoạt động giữa quân đội với các tổ chức chính trị - xã hội trong tiến hành CTDV; tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng trong tranh chấp, lấn chiếm đất quốc phòng. Đồng thời, phải tích cực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận CTDV; đẩy mạnh hoạt động trao đổi, học tập kinh nghiệm ở trong nước và các nước bạn, góp phần làm phong phú thêm nội dung, hình thức tiến hành CTDV, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Bốn là, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm của người chỉ huy, chính ủy (chính trị viên), cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp đối với CTDV. Cấp ủy, cán bộ chủ trì các cơ quan, đơn vị phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm Quy chế CTDV của QUTƯ, đưa mọi hoạt động CTDV vào nền nếp. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo; người chỉ huy tổ chức thực hiện; cơ quan chính trị làm tham mưu; mọi cán bộ, chiến sĩ làm nòng cốt và phân công cấp ủy viên phụ trách CTDV. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, chính ủy (chính trị viên) và người chỉ huy cụ thể hóa thành kế hoạch hoạt động, phù hợp với chức trách, nhiệm vụ; gắn hiệu quả CTDV với kết quả lãnh đạo của cấp ủy, trách nhiệm điều hành của người chỉ huy và chất lượng bình xét, phân loại tổ chức đảng, đảng viên; khắc phục mọi biểu hiện xem nhẹ CTDV, coi đó là việc của cơ quan chính trị và cán bộ dân vận chuyên trách. Tăng cường hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện nghị quyết; định kỳ hằng quý, tháng, cấp ủy nghe báo cáo tình hình CTDV để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời; quan tâm đúng mức đến đội ngũ cán bộ chuyên trách và đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm CTDV ở cơ sở. Cơ quan chính trị làm tốt vai trò tham mưu giúp cấp ủy, chỉ huy phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo CTDV; chú trọng phát huy hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng trong quân đội với vai trò vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong tiến hành CTDV ở các loại hình cơ quan, đơn vị.

Năm là, tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan dân vận, đội ngũ cán bộ làm CTDV. Toàn quân phải tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, hệ thống cơ quan dân vận theo quy chế đã ban hành; lựa chọn những cán bộ có năng lực, tâm huyết và kinh nghiệm công tác bố trí vào cơ quan dân vận các cấp. Đồng thời, quan tâm phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ chuyên gia giỏi về CTDV; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ dân vận chuyên trách là người địa phương, người dân tộc thiểu số, người có đạo. Để đội ngũ cán bộ làm CTDV hoàn thành tốt nhiệm vụ, các đơn vị phải làm tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức kinh tế - xã hội, pháp luật, dân tộc, tôn giáo, năng lực, trình độ và kỹ năng nghiệp vụ CTDV; biết nói tiếng dân tộc, với phương châm “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ dân vận công tác ở vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới, xã trọng điểm về quốc phòng - an ninh...

Phát huy kết quả đã đạt được sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 152/NQ-ĐUQSTW của QUTƯ, thời gian tới, CTDV của LLVT tiếp tục phát huy vai trò “đội quân công tác” của dân, do dân, vì dân trong củng cố, tăng cường đoàn kết quân - dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

[1] - Toàn quân đã tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương được 44.230 lượt xã, phường, 132.460 lượt tổ chức chính trị - xã hội cơ sở; cử 1.261 lượt cán bộ quân đội tham gia cấp ủy, chính quyền địa phương; gọi nhập ngũ 43.085 con em đồng bào dân tộc thiểu số, 121 thanh niên đồng bào có đạo; tuyển sinh 3.717 trường hợp, cử tuyển 1.297 học viên người dân tộc thiểu số; kết nạp đảng cho 2.558 quân nhân người dân tộc thiểu số, 931 quân nhân có đạo...

[2] - 10 năm qua, các đơn vị đã giúp dân lao động, sản xuất, phát triển kinh tế được hơn 10 triệu ngày công; ủng hộ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai 6,8 tỷ đồng; ủng hộ nạn nhân chất độc da cam 15,85 tỷ đồng, đóng góp các quỹ địa phương 140,724 tỷ đồng; giúp dân theo Chương trình Nghị quyết 30a của Chính phủ 47,649 tỷ đồng; xây dựng 9.000 Nhà đại đoàn kết, Nhà tình nghĩa; phụng dưỡng 3.500 Bà mẹ Việt Nam anh hùng; đỡ đầu chăm sóc hơn 1.000 con thương binh, liệt sĩ; tạo việc làm cho hơn 233.600 hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và gần 3.800 hộ đồng bào di, dịch cư tự do; đào tạo trên 1.000 y tá, y sĩ thôn, bản; xây dựng, củng cố toàn diện hơn 620 trạm y tế, củng cố 1.500 trạm y tế xã ở vùng sâu, vùng xa; khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hơn 3,6 triệu lượt người...

Trung tướng Đào Duy Minh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam (nguồn: Tạp chí QPTD)

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục gửi về banbientapcsb@gmail.com