20/11/2018 08:53:00 AM
(Canhsatbien.vn) -
Luật Cảnh sát biển Việt Nam gồm 8 chương, 41 điều, quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tổ chức và hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam; chế độ, chính sách đối với Cảnh sát biển Việt Nam; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Luật Cảnh sát biển Việt Nam đã được Quốc hội thông qua với tỷ lệ tán thành cao
Luật quy định quyền hạn của Cảnh sát biển Việt Nam gồm: Tuần tra, kiểm tra, kiểm soát người, tàu thuyền, hàng hóa, hành lý trong vùng biển Việt Nam theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tiến hành một số hoạt động điều tra hình sự theo quy định của pháp luật về tổ chức cơ quan điều tra hình sự, pháp luật về tố tụng hình sự; truy đuổi tàu thuyền vi phạm pháp luật trên biển; huy động người, tàu thuyền và phương tiện, thiết bị kỹ thuật dân sự của cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam trong trường hợp khẩn cấp; bắt giữ tàu biển theo quy định của pháp luật về bắt giữ tàu biển...
Về vị trí, chức năng của Cảnh sát biển Việt Nam, Luật quy định: Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển. Cảnh sát biển Việt Nam có chức năng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất với Đảng, Nhà nước về chính sách, pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển; bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trong vùng biển Việt Nam; quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế theo thẩm quyền.
Trước đó, về vị trí, chức năng của Cảnh sát biển Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Võ Trọng Việt cho biết, đã có ý kiến đề nghị làm rõ hơn về vị trí, chức năng của Cảnh sát biển Việt Nam trong tương quan với Bộ đội Biên phòng và Hải quân trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Về ý kiến này, Chủ nhiệm Võ Trọng Việt nêu rõ: Quy định về vị trí, chức năng của Cảnh sát biển Việt Nam trong dự thảo Luật đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng có liên quan tới Cảnh sát biển Việt Nam, trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam hiện hành và bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật. Trong bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, Hải quân là nòng cốt; trong bảo vệ biên giới quốc gia trên biển, Bộ đội Biên phòng là nòng cốt; trong thực thi pháp luật trên biển, Cảnh sát biển Việt Nam là nòng cốt.
“Mỗi lực lượng đều được pháp luật quy định nhiệm vụ, chức năng cụ thể phù hợp với vị trí, vai trò của mình; đồng thời có sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng và quy định về việc phối hợp hoạt động nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Do đó, đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật”, Chủ nhiệm Võ Trọng Việt nhấn mạnh.
Ngoài ra, cũng có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của Cảnh sát biển Việt Nam trong thu thập thông tin, phân tích đánh giá, dự báo tình hình để đề xuất chủ trương, giải pháp trong việc bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia trên các vùng biển Việt Nam. Chủ nhiệm Võ Trọng Việt nhấn mạnh: Cảnh sát biển Việt Nam là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia và là một trong những lực lượng được giao nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển; có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng khác để phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Do đó, dự thảo Luật quy định Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình để đề xuất chủ trương, giải pháp, phương án bảo vệ an ninh quốc gia là phù hợp, không chồng chéo với Hải quân và các lực lượng khác.
Quỳnh Phương