29/06/2017 09:05:00 AM
(Canhsatbien.vn) -
Việt Nam là quốc gia biển, nằm trên bờ Biển Đông với không gian rộng lớn: diện tích hơn 1 triệu km2, và chiều dài hơn 3.260 km, 198.000 km sông ngòi thuận lợi cho hàng hải và hệ thống cảng sông biển phát triển mạnh. Kinh tế hàng hải đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế quốc dân nói chung và kinh tế biển nói riêng. Cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế, sự gia tăng hàng hóa xuất nhập khẩu, thì hàng hóa vận tải qua đường biển gia tăng mạnh với khối lượng hiện nay khoảng 250 triệu tấn và sẽ gia tăng tới 500 triệu tấn vào năm 2030; số lượng tàu thuyền hoạt động đánh bắt hải sản trên biển gần đây cũng đã đạt gần 200.000 tàu. Trong khi đó, hoạt động trên Biển Đông có rất nhiều rủi ro do thiên tai như bão, gió xoáy gây nguy hiểm cho việc hải hành, đánh bắt hải sản và các hoạt động khác trên biển.
Để tăng cường mức độ an toàn của việc hải hành trên các tuyến hàng hải quốc tế và nội địa, phòng ngừa các tai nạn xảy ra trên biển, nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế trên biển, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, cũng như đáp ứng các yêu cầu của các tổ chức quốc tế thì việc đầu tư, thiết lập các hệ thống thông tin phục vụ đảm bảo an toàn hàng hải và hệ thống thông tin thiên tai - cứu hộ cứu nạn là rất cần thiết và quan trọng.
Công nghệ của các cơ quan quản lý biển
Từ năm 2007, Bộ Bưu chính Viễn thông thực hiện tăng cường năng lực hệ thống thông tin trên bờ theo đúng chỉ đạo của Chính phủ về sử dụng chung cơ sở hạ tầng bên cạnh việc đẩy mạnh trang thiết bị thông tin cần thiết trên các tàu thuyền đánh cá. Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổ chức lại hệ thống thông tin dự báo thiên tai, Cục Hàng hải tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin tìm kiếm cứu nạn...
Riêng hệ thống thông tin quản lý tàu thuyền, các ban ngành cũng kiến nghị thành lập Trung tâm Quản lý tàu thuyền đánh cá thuộc Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn và Trung tâm Quản lý tàu thuyền vận tải thuộc Bộ Giao thông Vận tải. Việc thành lập Trung tâm Quản lý tàu thuyền là vấn đề cấp bách, nó giúp các cơ quan chức năng nắm được tình hình tàu thuyền ra khơi (có bao nhiêu tàu thuyền đang ở ngoài khơi, vị trí của các tàu ra sao...) để chủ động trong mọi tình huống.
Tuy nhiên để xác định được các mục tiêu trên biển chúng ta cần có hệ thống giám sát tổng hợp - thống nhất toàn bộ 1 triệu km2 biển bằng vệ tinh, máy bay, radar, drone… nhằm phát hiện các tàu thuyền của cả các quốc gia khác, gồm tàu hàng, tàu cá, tàu dầu khí, tàu khoa học, tàu du lịch...
Hiện trạng quản lý, giám sát tàu hàng Việt Nam
Hệ thống thông tin (HTTT) của ngành Hàng hải Việt Nam (HHVN) do Công ty Thông tin điện tử hàng hải Vishipel trực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải quản lý và điều hành khai thác. HTTT HHVN đã có những bước tiến mạnh trong gần 50 năm nay, đã thực thi nghĩa vụ đối với Công ước An toàn sinh mạng trên biển SOLAS 74/88 của Tổ chức Hàng hải quốc tế IMO nhằm bảo đảm an toàn-an ninh hàng hải trên biển và đã có thiết lập hệ thống thông tin cấp cứu và an toàn hàng hải toàn cầu GMDSS phục vụ các hoạt động trên biển bao gồm: trực canh thu điện cấp cứu, an toàn hàng hải, dự báo thời tiết, trợ giúp y tế... Cho đến nay HTTT của HHVN bao gồm:
- HTTT duyên hải với 29 đài thông tin duyên hải, 1 đài vệ tinh mặt đất Inmarsat, 1 đài thu tín hiệu báo động cấp cứu qua vệ tinh COSPAS-SARSAT và 1 trung tâm xử lý thông tin hàng hải.
- Hệ thống Báo động an ninh hàng hải SSAS tăng cường an ninh trên biển và hạn chế, đối phó với các hành động khủng bố, cướp biển theo Bộ luật An ninh tàu và cảng biển (ISPS code) của IMO. Trung tâm Tiếp nhận, truyền phát thông tin an ninh hàng hải trực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam có chức năng trực canh 24/24 nhằm đảm bảo việc tiếp nhận, xử lý kịp thời các thông tin liên quan đến an ninh hàng hải.
Định hướng phát triển hệ thống quản lý điều hành trên biển VTS:
Đây là hệ thống thông minh giám sát sự di chuyển các phương tiện tàu thuyền, được lắp đặt tại các bến cảng, luồng lạch để giám sát và điều khiển các phương tiện ra vào nhanh chóng và an toàn.
Hệ thống VTS được coi là bản đồ điện tử của khu vực cảng biển, có khả năng giám sát và truy theo vị trí của tàu, tính toán được hướng, sự di chuyển của tàu, từ đó dự đoán khả năng nguy hiểm như va chạm, đâm, mắc cạn, để đưa ra trợ giúp hành hải cho thuyền trưởng, hoa tiêu thông qua hệ thống thông tin VHF
VTS bao gồm: Ra-đa biển, Hệ thống nhận dạng tự động AIS, Hệ thống Camera, hệ thống thông tin liên lạc VHF, thiết bị định hướng RDF, hệ thống cảm biến thời tiết, hệ thống lưu trữ, xử lý dữ liệu VTS.
Các hệ thống thông tin và định vị hàng hải trên biển
Hình 1: Sơ đồ chung HTTT an toàn và cứu nạn hàng hải toàn cầu GMDSS.
Hình 2: Sơ đồ Hệ thống Vệ tinh toàn cầu hàng hải GMDSS tại 1 khu vực (EPIRP- Thiết bị phát tín hiệu cấp cứu từ tàu).
Năm 2011 đã thể hiện tính phụ thuộc và rủi ro về HTTT và định vị trên biển đối với tàu Vinalines Queen (Việt Nam) gặp nạn ngày 25/12/2012 tại vùng biển Philippines do thiếu tính tức thời và cập nhật thông tin, đã làm cho các cơ quan chức năng Việt Nam bối rối trong điều hành cứu hộ cứu nạn và thông tin cho các cơ quan liên quan, gây mất lòng tin nghiêm trọng cho HTTT của Hàng hải Việt Nam.
Hệ thống quản lý tàu cá trên biển
Hiện nay trên các vùng biển Việt Nam có 130.000 tàu cá vỏ gỗ, với khoảng 70.000 tàu dưới 20 CV, 20.000 tàu công suất máy trên 90HP, có Máy ICOM, GPS. Các nghề khai thác chính: kéo đáy, rê, vây, câu… với trên 40 loại nghề và đạt sản lượng: trên 2 triệu tấn/năm, xuất khẩu đạt trên 5 tỉ USD.
Quản lý nghề cá bằng công nghệ vệ tinh Movimar
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa chính thức khởi động Dự án Hệ thống Quan sát tàu cá, vùng đánh bắt và nguồn lợi thủy sản bằng công nghệ vệ tinh Movimar. Dự án này được triển khai trong 3 năm (2011-2013) với tổng kinh phí đầu tư gần 14 triệu euro, từ nguồn vốn ODA của Cộng hòa Pháp. Quy mô triển khai của Dự án bao gồm: xây dựng 3 trung tâm vận hành cơ sở dữ liệu và xử lý ảnh viễn thám về khí tượng thủy văn, hải dương học nghề cá tại Hà Nội, Hải Phòng và Vũng Tàu; cung cấp, lắp đặt 3.000 thiết bị kết nối vệ tinh cho tàu cá của 28 tỉnh, thành ven biển; đào tạo nguồn nhân lực sử dụng công nghệ vệ tinh Movimar tại Pháp và trong nước.
Mục tiêu của Dự án là nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý nghề cá hiện đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản; quản lý các hoạt động khai thác hải sản hiệu quả và an toàn, đảm bảo trật tự, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển.
Hình 3: Dự án Movimar
Hình 4: CLS hỗ trợ cho quản lý nghề cá và giám sát tàu cá ở Việt Nam.
Một số công nghệ khác hỗ trợ cho giám sát quản lý biển Việt Nam
- Vệ tinh Vinasat 1, 2.
- Vệ tinh giám sát tài nguyên và môi trường Việt Nam năm 2013. VNREDSat-1 (Vietnam Natural Resources, Environment and Disaster Monitoring Satellite)
- Viettel đã tích cực phủ sóng hầu hết vùng Biển Đông, trên các đảo, giàn khoan dầu khí, điện thoại SEAPHONE kèm định vị toàn cầu GPS, internet bán kính 120 km sẽ giúp tích hợp với HTTT HHVN quản lý tốt tàu cá VN và chủ quyền quốc gia, công nghệ này sẽ hỗ trợ tàu thuyền đánh cá tốt hơn nhiều so với công nghệ ICOM (bộ đàm bờ - tàu) dùng sóng hạn chế. Các tàu cũng dễ dàng liên lạc với nhau khi có sự cố. Công nghệ này còn là bước đột phá của Việt Nam so với thế giới vì hiện tại BTS điện thoại chỉ phủ sóng đến 35 km.
- FPT (FPT-space) đang thử nghiệm chế tạo và ứng dụng vệ tinh nhỏ AIS để tham gia mạng lưới toàn cầu, hỗ trợ nhận dạng tàu thuyền Việt Nam trên toàn cầu.
Hình 5: Sơ đồ nhận dạng tự động AIS tàu thuyền.
Hình 6: Sơ đồ theo dõi tàu từ vệ tinh nhỏ.
Hình 7: Vệ tinh theo dõi hành hải toàn bộ tàu Việt Nam trên toàn cầu.
Hình 8: Tàu thử nghiệm của FPT giám sát Hải hành tàu từ cảng Đà Nẵng.
Đề xuất giải pháp công nghệ thống nhất quản lý, giám sát tàu thuyền và biển
Qua ứng phó với tai nạn tàu VQ tại vùng biển Philippines, cho thấy HTTT hàng hải của Việt Nam đang có nhiều vấn đề bất cập, đồng thời hệ thống tàu cá của Việt Nam hầu như chưa có hệ thống AIS nên cũng rất khó kiểm soát các tàu đánh cá không phép, các tàu nước ngoài đi lại trên vùng biển Việt Nam, các tàu xả dầu, chất thải trộm không phép, các tàu buôn lậu xuyên biên giới... chúng ta vẫn chưa kiểm soát được, dẫn đến ảnh hưởng cả vấn đề chủ quyền quốc gia trên biển, hợp tác hội nhập quốc tế. Chính vì vậy giống như các quốc gia biển khác, chúng ta phải đa đạng hóa các hệ thống kiểm soát và xác định tàu thuyền trên biển, giúp bảo vệ chủ quyền, tìm kiếm, cứu nạn, giám sát khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển hiệu quả.
Thế kỷ 21, thế kỷ hội nhập quốc tế, thế kỷ của đại dương, thế kỷ của công nghệ số-không dây (điện thoại di động, máy tính, internet, GPS, Wifi), công nghệ vệ tinh viễn thám, radar. Các công nghệ đã thay đổi rất nhanh, kể cả truyền tin và thông tin trên biển đã tạo ra sự phát triển mới về HTTT và định vị trên biển trên toàn cầu theo hướng hiện đại, gọn nhẹ hơn. Hiện trạng công nghệ vệ tinh nhận dạng tàu thuyền đang chuyển từ việc dùng các vệ tinh lớn sang các vệ tinh siêu nhỏ chỉ vài kg, giá thành không cao mà cũng có tác dụng tương đương. Để chủ động thông tin giám sát các tàu thuyền Việt Nam trên Biển Đông và các vùng biển quốc tế, bằng nguồn thông tin từ các vệ tinh siêu nhỏ thì Việt Nam có thể chủ động có được thêm hệ thống của riêng mình, sẽ tạo cơ hội điều hành, quản lý tàu Việt Nam hiệu quả hơn, chủ động hơn. Vệ tinh nhỏ có các tác dụng: quản lý hàng hải, theo dõi hải trình của tàu, giám sát hoạt động đánh bắt cá, xác định và truy tìm tàu xả dầu, hỗ trợ tìm kiếm cứu nạn... Chùm vệ tinh nhỏ Việt Nam sẽ tham gia và hội nhập mạng lưới vệ tinh quốc tế và được chia sẻ dữ liệu đầy đủ.
Để đảm bảo an ninh thông tin hàng hải và tàu thuyền trên biển riêng cho Việt Nam, các năm 2007, 2009, 2011, 2013, 2014, 2015, Hội Vô tuyến điện tử Việt Nam, Đại học Bách Khoa Hà Nội cùng đã bắt đầu tổ chức Hội nghị khoa học quốc tế về “Hệ thống thông tin và định vị trên biển vì sự nghiệp an ninh - quốc phòng và phát triển kinh tế biển Việt Nam”. Đã có một số nhà khoa học Việt Nam có các công trình và ứng dụng thành công cho HTTT biển bằng công nghệ mới. Nếu được quan tâm đầu tư về tài chính, cơ sở hạ tầng thì các công trình này sẽ sớm được đưa vào ứng dụng và đạt hiệu quả trong công tác quản lý tàu thuyền và quản lý biển Việt Nam. Như vậy, Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động công nghệ để hòa nhập với HTTT trên biển, phục vụ tốt an ninh - an toàn hàng hải và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, để thống nhất quản lý tàu thuyền và biển chúng ta cần xây dựng Trung tâm quốc gia (Cục) Giám sát, quản lý tổng hợp thống nhất biển Việt Nam dựa trên các nền tảng sau:
- Trung tâm Quản lý giám sát tàu thuyền hàng hải
- Trung tâm Quản lý giám sát tàu cá;
- Trung tâm Quản lý giám sát tàu nghiên cứu khoa học
- Hệ thống Vệ tinh quốc gia (Vinasat ½, VNREDSat)
- Hệ thống Thông tin giám sát biển, hàng hải khu vực ASEAN, Đông Á và thế giới./.
TS. Dư Văn Toán
Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo