25/08/2020 03:39:00 AM
(Canhsatbien.vn) -
Luật Cảnh sát biển Việt Nam gồm 8 Chương, 41 Điều, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2019. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, có ý nghĩa chính trị và tầm quan trọng đặc biệt; là nền tảng pháp lý vững chắc, chuyên biệt trong hệ thống pháp luật để Lực lượng Cảnh sát biển xây dựng, phát triển theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; tạo cơ sở nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ Cảnh sát biển, đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo vệ biển đảo của Tổ quốc trong tình hình mới.
Để Luật Cảnh sát biển Việt Nam (Luật) nhanh chóng đi vào cuộc sống, phát huy hiệu lực, hiệu quả cao nhất, Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt các cơ quan, đơn vị tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các quy định của Luật, trong đó tập trung vào các quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi hoạt động, phối hợp hoạt động, hợp tác quốc tế của Lực lượng. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Luật cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn Lực lượng cũng như cán bộ, Nhân dân các địa phương trên cả nước nhằm nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật về Lực lượng Cảnh sát biển và hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của mỗi cá nhân, làm cơ sở đòn bẩy để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Sau một năm kể từ khi Luật có hiệu lực thi hành, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, chính quyền địa phương, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trên các mặt hoạt động, công tác, thực thi nhiệm vụ, cụ thể là:
Trong công tác SSCĐ, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển
Toàn Lực lượng đã triển khai thực hiện đầy đủ, toàn diện các quy định của Luật Cảnh sát biển Việt Nam liên quan tới chức năng, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc trên biển (Điều 3, khoản 2 Điều 8): Tiếp tục duy trì nghiêm hệ thống trực SSCĐ các cấp theo quy định; phối hợp chặt chẽ với các đơn vị hiệp đồng, theo dõi, nắm chắc tình hình trên không, trên biển, trên địa bàn liên quan theo quy định (khoản 1 Điều 8, Điều 22, Điều 23, Điều 24); tích cực, chủ động đánh giá, tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong chỉ huy, chỉ đạo các hoạt động quản lý, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Hiệp đồng, phối hợp với 05 quân khu ven biển, các bộ, ban, ngành và 28 tỉnh, thành phố ven biển tiến hành rà soát nguồn nhân lực, tàu thuyền và phương tiện dân sự để huy động theo khoản 6 Điều 8, Điều 16 của Luật Cảnh sát biển và Nghị định 30/2010/NĐ-CP, Nghị định 130/2015/NĐ-CP, Thông tư 153/TT-BQP, sẵn sàng tiếp nhận nguồn nhân lực, phương tiện tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tích cực, chủ động tham gia xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh và sẵn sàng xử lý tình huống quốc phòng, an ninh trên biển (khoản 4 Điều 8). Tăng cường tổ chức luyện tập, diễn tập các phương án tác chiến...
Trong tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, duy trì thực thi pháp luật trên biển
Các cơ quan, đơn vị Cảnh sát biển đã quán triệt nghiêm túc, triển khai thực hiện đồng bộ các quy định của Luật Cảnh sát biển Việt Nam trong hoạt động tuần tra, kiểm tra, kiểm soát (theo Điều 13, khoản 1 Điều 9 và Thông tư số 15/2019/TT-BQP của Bộ Quốc phòng). Duy trì nghiêm lực lượng, phương tiện, tàu thuyền trực và tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên các vùng biển trọng điểm; phối hợp chặt chẽ với Quân chủng Hải quân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tăng cường điều động, sử dụng hàng trăm lượt tàu, thuyền tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, duy trì thực thi pháp luật trên các vùng biển. Qua đó đã tuyên truyền, yêu cầu gần 1.100 lượt/chiếc tàu thuyền nước ngoài vi phạm ra khỏi vùng biển Việt Nam; ghi số hiệu 548 tàu, lập biên bản điểm chỉ hải đồ phóng thích gần 100 tàu. Quá trình hoạt động trên biển, các tàu Cảnh sát biển còn kết hợp tuyên truyền pháp luật cho hàng trăm tàu cá Việt Nam vi phạm quy định chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không theo quy định và không báo cáo (IUU); phát hiện, xử lý nhiều lỗi về an toàn hàng hải với hơn 500 tàu, số tiền xử phạt vi phạm hành chính hơn 600 triệu đồng nộp vào ngân sách Nhà nước.
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển
Căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi quản lý, địa bàn hoạt động được giao, các cơ quan, đơn vị Cảnh sát biển đã tổ chức thực hiện đầy đủ các quy định của Luật Cảnh sát biển Việt Nam liên quan tới đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển (khoản 2 Điều 3; khoản 3 Điều 8; khoản 4, khoản 5 Điều 9 và các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tổ chức cơ quan điều tra hình sự khác có liên quan). Trong năm vừa qua, toàn Lực lượng đã phát hiện, kiểm tra, bắt giữ, điều tra xử lý 508 vụ/936 đối tượng tội phạm, vi phạm trong đó có nhiều vụ việc lớn, tang vật tịch thu có giá trị cao; tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính và phát mại tài sản vi phạm, nộp ngân sách Nhà nước ước tính hơn 200 tỷ đồng. Đối với tội phạm tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, Lực lượng Cảnh sát biển đã trực tiếp hoặc phối hợp đấu tranh, bắt giữ, xử lý hơn 100 vụ với 268 đối tượng. Tang vật thu giữ gồm hàng chục kg ma túy đá, hàng chục nghìn viên ma túy tổng hợp, 14 bánh heroin, hàng chục kg ma túy dạng cỏ và nhiều tang vật, tài vật khác.
Trong thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn
Lực lượng Cảnh sát biển đã tích cực, chủ động bố trí nhân lực, phương tiện tham gia tìm kiếm, cứu nạn trên cơ sở các quy định của Luật Cảnh sát biển Việt Nam (khoản 2, khoản 3 Điều 8); tổ chức thực hiện tốt công tác tìm kiếm, cứu nạn cả trên biển, trên đất liền và tham gia khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt với hơn 100 lượt tàu, xuồng/1.430 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia. Kết quả cứu được 202 người, 21 tàu; di dời tài sản cho gần 30 hộ dân, sơ tán hơn 400 người dân đến nơi an toàn trong điều kiện thời tiết phức tạp, nguy hiểm. Tăng cường huấn luyện thực tế, diễn tập các phương án tìm kiếm, cứu nạn trên biển; duy trì lực lượng, phương tiện trực, bảo đảm thông suốt kênh liên lạc, chia sẻ thông tin cứu nạn với các lực lượng chức năng liên quan; nắm chắc tình hình mặt biển, diễn biến thời tiết, thiết thực nâng cao hiệu quả công tác tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển.
Trong hoạt động hợp tác quốc tế
Các Điều 19, 20, 21 Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định về nguyên tắc, nội dung, hình thức hợp tác quốc tế của Lực lượng Cảnh sát biển đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc để Lực lượng Cảnh sát biển duy trì, xây dựng các cơ chế hợp tác quốc tế linh hoạt, rộng mở. Bên cạnh việc tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác chặt chẽ với lực lượng thực thi pháp luật trên biển của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, Cảnh sát biển Việt Nam còn thực hiện tốt công tác tham mưu cho Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Chính phủ về công tác đối ngoại quốc phòng; bám sát và thực hiện nghiêm Nghị quyết số 860-NQ/QUTW ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về Hội nhập kinh tế và đối ngoại quốc phòng, nổi bật là: Tăng cường trao đổi thông tin, tình hình về hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp; thực hiện kiểm tra liên hợp nghề cá ở Vịnh Bắc bộ với Cảnh sát biển Trung Quốc; kịp thời phối hợp xử lý nhanh chóng, hiệu quả các vụ việc liên quan giữa các quốc gia có vùng biển liền kề, góp phần duy trì hòa bình, ổn định khu vực Biển Đông; tiếp tục đưa hoạt động hợp tác quốc tế với Hoa Kỳ, Nhật Bản đi vào chiều sâu; tăng cường năng lực cho Lực lượng Cảnh sát biển thông qua các dự án, chương trình tài trợ; cử nhiều lượt cán bộ, sĩ quan tham gia các chương trình tập huấn, nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên biển. Thúc đẩy hoạt động trao đổi ngoại giao với Cơ quan Thực thi pháp luật trên biển Malaysia (MMEA), Cảnh sát biển Indonesia (Barkamla) để tiến tới ký kết Bản ghi nhớ.
Trong công tác phối hợp với các cơ quan, đơn vị, lực lượng
Trên cơ sở quy định tại Điều 22, 23, 24, 25 về hoạt động phối hợp của Cảnh sát biển Việt Nam, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã tích cực, chủ động nghiên cứu, rà soát các quy chế, kế hoạch phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng liên quan; tham mưu, đề xuất sửa đổi bổ sung, xây dựng mới các Quy chế phối hợp bảo đảm phù hợp, cập nhật đầy đủ các quy định về nội dung, hình thức, trách nhiệm phối hợp. Lực lượng Cảnh sát biển đã và đang từng bước thực hiện đa dạng hóa nội dung, hình thức, biện pháp phối hợp hoạt động với các lực lượng (Quyết định 5895/QĐ-BQP ngày 13/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) và các cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng thuộc bộ, ngành, chính quyền địa phương (Điều 31 đến Điều 42 Nghị định 61/2019/NĐ-CP của Chính phủ). Từ 01/7/2019 đến nay, Lực lượng Cảnh sát biển đã phối hợp các cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng, chính quyền địa phương trao đổi gần 15.000 tin nghiệp vụ; tuyên truyền, đấu tranh hàng nghìn lượt tàu nước ngoài vi phạm vùng biển Việt Nam; bắt giữ, xử lý hàng trăm đối tượng, tàu thuyền vi phạm; bắt 03 đối tượng tội phạm truy nã đặc biệt nguy hiểm lẩn trốn trên tàu cá của ngư dân; từng bước nâng cao hiệu quả công tác phối hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, chính quyền địa phương, đặc biệt là các lực lượng trực tiếp hoạt động trên biển.
Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Trên cơ sở quy định về nhiệm vụ Cảnh sát biển (khoản 5 Điều 8) và nội dung, trách nhiệm phối hợp trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (khoản 6 Điều 24), Cảnh sát biển đã tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xây dựng Đề án số 8692/ĐA-BQP ngày 12/8/2019 về tuyên tuyên, phổ biến Luật Cảnh sát biển Việt Nam giai đoạn 2019 - 2023 và báo cáo Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1059/QĐ-TTg ngày 22/8/2019 phê duyệt, đồng thời tham mưu ban hành kế hoạch, quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Bộ Quốc phòng để triển khai thực hiện Đề án theo Quyết định số 1059/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Thiết thực triển khai thực hiện Đề án Tuyên tuyên, phổ biến Luật Cảnh sát biển Việt Nam giai đoạn 2019 - 2023, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã phát động Cuộc thi tìm hiểu Luật Cảnh sát biển Việt Nam trong toàn Lực lượng, thu hút số lượng lớn cán bộ, chiến sĩ tham gia. Song song với đó, các cơ quan đơn vị cũng đẩy mạnh hoạt động công tác tuyên truyền, phổ biến Luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật tới toàn thể cán bộ, chiến sĩ cũng như cán bộ, Nhân dân trên địa bàn đóng quân với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, sát tình hình thực tiễn. Đồng thời, phối hợp các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương và địa phương tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Luật đến Nhân dân cả nước; đẩy mạnh ký kết, mở rộng triển khai chương trình “Cảnh sát biển đồng hành với ngư dân”; thực hiện tốt công tác dân vận “Cảnh sát biển với đồng bào dân tộc, tôn giáo”; tổ chức 96 buổi tuyên truyền về Luật Cảnh sát biển, về các quy định chống khai thác IUU, chỉ dẫn khu vực đánh bắt, kỹ năng tìm kiếm, cứu nạn và kênh liên lạc, đường dây nóng khi gặp sự cố trên biển cho 24.502 lượt cán bộ, Nhân dân, ngư dân, học sinh và 980 phương tiện tàu thuyền trên các địa bàn; phát 19.920 tờ rơi tuyên truyền pháp luật cho các đối tượng...
Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực sẽ có nhiều thay đổi, diễn biến phức tạp khó lường; xuất hiện nhiều tình huống mới về các vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống trên biển; hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo, các hoạt động tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại, mất an toàn hàng hải, ô nhiễm môi trường biển vẫn chưa có chiều hướng giảm. Với vai trò là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng trong cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển, Cảnh sát biển phải gánh vác trách nhiệm ngày một nặng nề, khó khăn hơn. Để tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Cảnh sát biển Việt Nam, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong những năm tiếp theo, Lực lượng Cảnh sát biển cần thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nội dung, giải pháp sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, đối sách của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, nhiệm vụ đối ngoại, hợp tác quốc tế và nhiệm vụ Cảnh sát biển trong hoạt động bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn trên các vùng biển, đảo Tổ quốc. Luôn đề cao tinh thần cảnh giác, SSCĐ, thực hiện nghiêm quy định, điều lệnh, điều lệ quản lý bộ đội và kỷ luật, nội quy của đơn vị; tăng cường tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, duy trì tốt chế độ trực trên các vùng biển trọng điểm; nhạy bén trong thực hiện nhiệm vụ, tránh mắc mưu các đối tượng; nâng cao năng lực quản lý tình hình mặt biển, theo dõi nắm bắt kịp thời, dự báo chính xác tình hình an ninh, chủ quyền trên biển để chủ động làm tốt công tác tham mưu cho thủ trưởng các cấp, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống trên biển.
Hai là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị Cảnh sát biển nâng cao năng lực, chất lượng công tác nắm, đánh giá, dự báo tình hình vi phạm, tội phạm trên biển, nhất là ở các địa bàn, tuyến, vùng biển trọng điểm. Kết hợp chặt chẽ giữa công tác phòng ngừa và đấu tranh, trong đó phòng ngừa là chính; giữa tuần tra, kiểm tra, kiểm soát bảo vệ chủ quyền với đấu tranh chống vi phạm, tội phạm; giữa đấu tranh chống vi phạm, tội phạm với công tác bảo vệ nội bộ. Làm tốt công tác phối hợp, hiệp đồng với các cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng hoạt động trên biển như Hải quân, Bộ đội Biên phòng, Kiểm ngư, Công an, Hải quan, các quân khu ven biển,... phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển.
Ba là, tích cực, chủ động nghiên cứu, tham mưu cấp có thẩm quyền tiếp tục sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho Lực lượng Cảnh sát biển thực hiện chức năng, nhiệm vụ, trước mắt tập trung vào Bộ Luật Tố tụng hình sự; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự; Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Thỏa thuận quốc tế; Luật Tạm giam, tạm giữ và hệ thống các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong các ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước trên biển. Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn Lực lượng tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Đề án Tuyên truyền, phổ biến Luật Cảnh sát biển Việt Nam giai đoạn 2019 - 2023, lồng ghép với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân, đặc biệt là ở các tỉnh, thành phố ven biển. Hình thức, nội dung tuyên truyền phải phong phú, đa dạng, sát thực tiễn, dễ hiểu, dễ nhớ.
Bốn là, tiếp tục tập trung đầu tư đóng mới tàu thuyền, mua sắm phương tiện trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, đồng bộ phù hợp yêu cầu đặc thù của Lực lượng; ưu tiên đóng mới tàu Cảnh sát biển hiện đại, có khả năng hoạt động dài ngày trên biển trong điều kiện khí hậu, thời tiết phức tạp; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức, biên chế theo chức năng, nhiệm vụ và sự phát triển của Lực lượng, bảo đảm lộ trình chặt chẽ, vững chắc, theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, phù hợp thực tiễn; bám sát phương châm “trang bị, phương tiện phát triển đến đâu, biên chế quân số đến đó”, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ; triển khai xây dựng Đề án tổ chức, sắp xếp lại Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ Cảnh sát biển và tham mưu cho Bộ Quốc phòng trình Chính phủ phê duyệt theo quy định.
Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nhất là với các nước có vùng biển giáp ranh với vùng biển Việt Nam; phát huy hiệu quả các đường dây nóng mà Cảnh sát biển Việt Nam đã ký kết với lực lượng thực thi pháp luật trên biển các nước; tranh thủ sự giúp đỡ, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và các nguồn lực quốc tế khác để nâng cao năng lực, tiếp tục nâng cao uy tín, vị thế của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đối với khu vực và thế giới.
Luật Cảnh sát biển Việt Nam là nền tảng pháp lý vững chắc để Lực lượng Cảnh sát biển bước sang một giai đoạn phát triển mới. Trong những năm tiếp theo, bên cạnh những thuận lợi là vô vàn khó khăn, thử thách. Việc tổ chức thực hiện tốt các nội dung, giải pháp nêu trên sẽ là yếu tố bảo đảm cho Lực lượng Cảnh sát biển phát triển, tiến thẳng lên hiện đại, xứng đáng với danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó./.
Thiếu tướng Trần Văn Nam
Phó Tư lệnh Cảnh sát biển