06/08/2015 11:47:00 AM
(Canhsatbien.vn) -
Trước vấn đề Biển Đông, Đảng ta kiên trì với chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình. Quan điểm chỉ đạo của Đảng là phải kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời cũng phải giữ được sự ổn định chính trị trong nước và môi trường hòa bình, ổn định với các nước trong khu vực, trên thế giới để xây dựng và phát triển đất nước.
Trên đường tuần tra.
Việt Nam có ba mặt giáp Biển Đông với bờ biển dài 3.260km, gần 3.000 đảo lớn, nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi vậy, an ninh biển đảo có tầm quan trọng đặc biệt đối với Việt Nam, tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của đất nước. Đối với biển và hải đảo nước ta hiện nay, trên khía cạnh an ninh truyền thống (ANTT) thì nguy cơ lớn nhất là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Cùng với đó, các vấn đề an ninh phi truyền thống (ANPTT) cũng là mối lo ngại không nhỏ như nạn khủng bố, cướp biển, vận chuyển ma túy, xuất nhập cư trái phép; buôn lậu, gian lận thương mại trên biển; biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên biển.
Về ANTT, cho đến nay, trên Biển Đông, chúng ta còn tồn tại bốn vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền lãnh thổ chưa giải quyết được và cần phải giải quyết, đó là: bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa 5 nước 6 bên, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philipines, Brunei, Đài Loan (Trung Quốc); phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) và xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cùng với đó, những nhân tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ quyền, an ninh vùng biển Việt Nam vẫn đang diễn ra gay gắt; nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp trên biển, đảo và thềm lục địa của nước ta vẫn chưa được loại trừ do đang tồn tại những nhận thức khác nhau về chủ quyền; có những yêu sách chủ quyền trái với thông lệ và luật pháp quốc tế; áp đặt tư duy chủ quan, nước lớn trong các hoạt động ở Biển Đông như đẩy mạnh việc xây đắp phi pháp các đảo nhân tạo, cải tạo các đảo đã chiếm đóng trái phép, nỗ lực đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng trên Biển Đông; tăng cường các hoạt động chống phá, mở rộng vùng hoạt động kinh tế;… Những hoạt động này đe dọa và ảnh hưởng không chỉ đối với an ninh quốc phòng của Việt Nam mà cả an ninh, an toàn của nhiều nước trong khu vực.
Về ANPTT, tình hình an ninh hàng hải khu vực Biển Đông thời gian qua diễn biến rất phức tạp và có chiều hướng gia tăng các vụ việc nghiêm trọng, gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng lớn đến môi trường an ninh trên biển. Theo thống kê của Lực lượng CSB VN, từ đầu năm 2014 đến nay đã có 2 tàu vận tải biển của Việt Nam bị cướp biển tấn công; 3 vụ xô xát trên vùng biển Vịnh Thái Lan giữa ngư dân Việt Nam với tàu Thái Lan và Campuchia; 71 tàu cá Việt Nam bị bắt giữ trên các vùng biển giáp ranh với Indonesia, Thái Lan, Campuchia và Malaysia; nhiều tàu thuyền nước ngoài đã tấn công, đâm, gây thiệt hại cho tàu cá của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Buôn lậu, gian lận thương mại trên biển với các phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt cũng là nguy cơ, thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng nói chung và Lực lượng CSB nói riêng.
Một số lĩnh vực quản lý nhà nước trên biển chưa được triển khai đồng bộ hoặc bị xem nhẹ, dẫn đến thiếu chặt chẽ, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn đường biển, nhất là lĩnh vực giao thông vận tải biển, cấp phép lưu hành phương tiện trên biển…
Bên cạnh đó, việc quản lý lỏng lẻo khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường biển dẫn đến thực trạng nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững; môi trường biển ở một số nơi bị ô nhiễm đến mức báo động; nạn phá hủy rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn cũng ngày một tăng.
Một số chủ trương, giải pháp để quản lý, bảo vệ biển đảo Việt Nam
Đối với các vấn đề ANTT: Trong thời gian tới, tình hình Biển Đông có thể diễn biến theo một trong các khả năng sau: Thứ nhất, các quốc gia vẫn theo đuổi chính sách riêng theo nhận thức của mình; Thứ hai, tình trạng căng thẳng, va chạm xảy ra nhiều nhưng không dẫn đến đối đầu quân sự; Thứ ba, cục diện căng thẳng và hòa dịu đan xen nhưng phức tạp và khó lường; Thứ tư, tăng cường đối thoại, tìm giải pháp nhưng khó thực chất; Thứ năm: không loại trừ có va chạm trên biển và nếu không kiểm soát tốt sẽ neo thang thành xung đột. Trong số đó, khả năng thứ 3 là cao hơn, sẽ không có giải pháp toàn diện, dứt điểm trong vòng 5 - 10 năm tới cũng như sẽ không có chiến tranh hoặc xung đột lớn xảy ra trên Biển Đông.
Về mục tiêu, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ: phải giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán; giữ gìn quan hệ hòa bình, không để xảy ra xung đột và bảo đảm cho phát triển kinh tế biển.
Về lập trường, chúng ta luôn luôn khẳng Việt Nam có chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời được hưởng các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, thềm lục địa theo đúng UNCLOS 1982. Lập trường của ta cũng kiên định giải quyết các tranh chấp chủ quyền biển đảo bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC 2002).
Lực lượng Cảnh sát biển trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Với mục tiêu, lập trường và chủ trương trên trong vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo, đến nay chúng ta đã triển khai các bước như: Ban hành hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến quy chế các vùng biển và chủ quyền của Việt Nam; Tuyên bố về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, đường cơ sở, Luật Hàng hải, Luật Dầu khí, Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Biên giới quốc gia, Luật Biển; Tham gia các công ước quốc tế về biển, luật biển, giao thông hàng hải và tiến hành đối ngoại cả song phương lẫn đa phương với Trung Quốc để giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp liên quan đến chủ quyền ở Hoàng Sa, quyền khai thác cửa Vịnh Bắc Bộ, “đường lưỡi bò” và thềm lục địa của Việt Nam. Chúng ta cũng đã tăng cường hợp tác với các nước trong và ngoài khu vực có lợi ích ở Biển Đông như Nhật, Hàn, Nga, Ấn, Úc, Mỹ, Anh, Pháp... để cùng giữ gìn an ninh biển, bảo vệ trật tự pháp lý trên biển; bảo vệ các nguyên tắc pháp lý được đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Bằng những bước đi kiên quyết, kiên trì và đồng bộ, chúng ta đã đạt được một số kết quả cụ thể trong giải quyết vấn đề Biển Đông. Đó là: giữ được hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác; khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển của ta; tạo được sự đồng thuận cao trong toàn dân tộc; làm cho dư luận quốc tế hiểu được tính đúng đắn, cơ sở pháp lý của ta và sự phi lý trong các yêu sách về chủ quyền của nước ngoài trên Biển Đông; bảo đảm cho các hoạt động kinh tế, đặc biệt là nghề cá và dầu khí được triển khai thuận lợi, lợi ích quốc gia được giữ vững.
Trong thời gian tới, trước vấn đề Biển Đông, Đảng ta tiếp tục kiên trì với chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình. Quan điểm chỉ đạo là phải kiên quyết giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đồng thời cũng phải giữ vững sự ổn định chính trị trong nước và môi trường hòa bình, ổn định với các nước trong khu vực, trên thế giới để xây dựng và phát triển đất nước.
Trước đây trong đấu tranh giành độc lập, ta đã “đem sức ta mà giải phóng cho ta” thì nay phải “đem sức ta mà bảo vệ cho ta”. Cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Sự giúp đỡ từ bên ngoài là quý báu, nhưng không thể chỉ trông chờ vào đó. Chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt phương châm, tư tưởng chỉ đạo: “4 Tránh”, “3 Không” và “9 K”. Theo đó, “4 Tránh” là tránh xung đột về quân sự, tránh đối đầu về kinh tế; tránh cô lập về ngoại giao; tránh lệ thuộc về chính trị. “3 Không” là: không liên minh quân sự với nước ngoài; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự để chống lại các nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với nước khác. “9 K” là: kiên quyết đấu tranh, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích, kiềm chế, không nổ súng trước, không để nước ngoài lấn chiếm biển đảo, không để xảy ra xung đột.
Để giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam cho rằng các bên liên quan cần tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982, Tuyên bố DOC, Tuyên bố Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông, hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) để giải quyết các vấn đề tranh chấp. Đây là nội dung đặc biệt quan trọng vì trong lúc lập trường của các nước còn khác xa nhau thì UNCLOS 1982 sẽ là cơ sở pháp lý, là chuẩn mực để các bên đối chiếu, điều chỉnh lại yêu sách của mình cho phù hợp và giải quyết các bất đồng, tranh chấp trên biển.
Đối với các vấn đề ANPTT: Trước những thách thức ANPTT trên biển, một mặt Việt Nam chủ trương phát huy nội lực là chủ yếu, mặt khác tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với tất cả các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Chúng ta cần không ngừng nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm dò, khai thác, nuôi trồng và bảo vệ tài nguyên môi trường biển, phát triển hệ thống giao thông đường biển, tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, lực lượng vũ trang và toàn thể nhân dân về tính nguy hại của thách thức ANPTT cũng như quyền lợi, trách nhiệm của công dân trong phòng, chống thách thức ANPTT, bảo đảm phát triển bền vững. Tăng cường công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo kịp thời tác động của ANPTT trên biển, nhất là tác động của biến đổi khí hậu, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, buôn bán phụ nữ và trẻ em... Xây dựng các chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên biển, kết hợp với chú trọng phát triển môi trường xanh, bền vững, đồng thời tăng cường đầu tư các nguồn lực và hoạch định cơ chế chính sách xã hội hóa trong phòng, chống thảm họa thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
Để giải quyết tốt vấn đề ANPTT, bên cạnh việc đánh giá tình hình, xác định đối tượng đấu tranh, các lực lượng bảo vệ biển phải thường xuyên đổi mới biện pháp kiểm soát, quản lý, nhất là những biện pháp nghiệp vụ. Phương châm chung là quản lý toàn diện nhưng kiểm tra có trọng điểm; tạo môi trường an ninh để phát triển kinh tế biển. Trong tình hình hiện nay, khi các quốc gia đều thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập thì hợp tác quốc tế trong ứng phó với các vấn đề ANPTT càng trở nên quan trọng, cấp thiết. Chúng ta phải tích cực đối thoại với các bên liên quan, tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị để tìm kiếm các giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm ứng phó với thách thức ANPTT một cách chủ động. Tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị, cơ chế đối thoại khu vực và quốc tế để tăng cường, mở rộng hợp tác nội khối ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác trong phòng chống thách thức ANPTT trên biển.
Việc duy trì an ninh trật tự, quản lý, bảo vệ các vùng biển đảo Việt Nam trong tình hình hiện nay và trong thời gian tới sẽ phải giải quyết nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi nỗ lực chung của tất cả các cấp, các ngành, các lực lượng và nhân dân cả nước. Với những chủ trương và biện pháp đúng đắn, đồng bộ trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng UNCLOS 1982, chúng ta sẽ thực hiện tốt trách nhiệm của một quốc gia có trách nhiệm: xây dựng Biển Đông thành một khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác, góp phần xây dựng môi trường hòa bình và thịnh vượng ở châu Á-Thái Bình Dương.
Thiếu tướng, TS. Nguyễn Quang Đạm - Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam