13/06/2019 03:34:00 AM
(Canhsatbien.vn) -
Ảnh: Đức Hạnh
Biển Việt Nam có diện tích khoảng hơn 1 triệu km2, nằm trọn trong Biển Đông, có vị trí địa chiến lược vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ khi giành được độc lập, đặc biệt là sau khi đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng để bảo vệ, quản lý và khai thác các lợi thế từ biển. Vì thế, Việt Nam đã chủ động tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Ngày 28/3/1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa X) đã ban hành Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam. Theo đó, Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm chấp hành pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trên các vùng biển, thềm lục địa của Việt Nam. Qua 20 năm thực hiện Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2008), Lực lượng Cảnh sát biển đã có những đóng góp quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn trên biển; tạo chỗ dựa, niềm tin cho nhân dân cũng như các thành phần kinh tế khác vươn khơi, bám biển để phát triển kinh tế, gắn với xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên biển. Qua đó, đã thể hiện Việt Nam là thành viên có trách nhiệm, thực hiện hiệu quả các nội dung của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 nhằm duy trì ổn định môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển trên biển, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia ven biển và luật pháp quốc tế.
Những năm gần đây, tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, tác động đến an ninh, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển của Việt Nam; các vấn đề về an ninh phi truyền thống, hoạt động cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền ở khu vực châu Á vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ; tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, nhất là nhóm tội phạm về ma túy, buôn lậu có dấu hiệu gia tăng cả về số vụ, số đối tượng và hậu quả tác hại. Phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm, các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật khác ở trên biển ngày một tinh vi, xảo quyệt, manh động hơn. Trong khi đó, Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam dù đã được sửa đổi, bổ sung năm 2008 nhưng vẫn còn một số bất cập như: chưa đảm bảo tính tương đồng với thực tiễn lập pháp các nước trên thế giới; chưa quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và xử lý các tình huống quốc phòng, an ninh trên biển; chưa quy định biện pháp công tác của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; chưa quy định Cảnh sát biển Việt Nam được hoạt động ở ngoài vùng biển Việt Nam trong một số trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật; chưa luật hóa thẩm quyền của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn dẫn đến hạn chế quyền con người, quyền công dân; chưa luật hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về “tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển”[1] và xây dựng Cảnh sát biển Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”[2], ... Những tồn tại, hạn chế này đã gây nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ của Lực lượng Cảnh sát biển, nhất là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và xử lý các tình huống quốc phòng, an ninh trên biển. Vì vậy, từ năm 2015, Thường vụ Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã chủ động tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền tổ chức tổng kết Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, làm cơ sở để triển khai xây dựng Dự án Luật Cảnh sát biển Việt Nam. Được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã tích cực nghiên cứu, trực tiếp giúp Ban Soạn thảo Dự án Luật Cảnh sát biển Việt Nam của Bộ Quốc phòng xây dựng dự thảo Luật và tổ chức tiếp thu, giải trình các ý kiến đóng góp của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Quốc phòng an ninh của Quốc hội, các bộ, ngành, địa phương, bảo đảm tiến độ, chất lượng, sát với thực tiễn hoạt động của Lực lượng Cảnh sát biển; hoàn chỉnh hồ sơ Dự án Luật để Chính phủ trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV với tỷ lệ biểu quyết rất cao, đạt 96,26%.
Luật Cảnh sát biển Việt Nam gồm 8 chương, 41 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019. Theo đó, “Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn trên biển”[3]; Cảnh sát biển Việt Nam có 3 nhóm chức năng, 7 nhóm nhiệm vụ, 10 quyền hạn. Luật cũng quy định về hoạt động và phối hợp hoạt động; tổ chức; bảo đảm hoạt động và chế độ, chính sách; quản lý nhà nước và trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương đối với Cảnh sát biển Việt Nam. Luật Cảnh sát biển Việt Nam ra đời thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước, Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với Lực lượng Cảnh sát biển; có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển trong giai đoạn hiện nay; thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; là tuyên bố mạnh mẽ về quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trong vùng biển Việt Nam bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế; là bước phát triển mới, tạo cơ sở pháp lý quan trọng, giúp Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam thực thi tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó.
Chính vì vậy, để quán triệt, triển khai nghiêm túc, hiệu quả Luật Cảnh sát biển Việt Nam trong thực tiễn cuộc sống, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn trong vùng biển Việt Nam, Lực lượng Cảnh sát biển cần thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả nhiều nội dung, giải pháp. Trong đó, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp sau:
Một là, tập trung nghiên cứu, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và các đề án Triển khai thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam bảo đảm tiến độ, chất lượng.
Để triển khai thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam, đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật và các đề án Triển khai thi hành Luật phải được cấp có thẩm quyền ban hành đúng thời gian, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ trong hệ thống pháp luật. Do đó, các cơ quan, đơn vị liên quan cần tập trung nghiên cứu, triển khai quyết liệt xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật và đề án triển khai thi hành Luật đã được Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao[4]. Quá trình xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật và đề án triển khai thi hành Luật cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động nghiên cứu lý luận, thực tiễn, kinh nghiệm trong nước và quốc tế, cầu thị, nghiêm túc tiếp thu, giải trình các ý kiến chỉ đạo, đóng góp của Chính phủ, Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành liên quan. Hồ sơ dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật và đề án triển khai thi hành Luật khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành phải bảo đảm chặt chẽ, đúng trình tự, thủ tục và thời gian quy định. Qua đó, sớm đưa Luật Cảnh sát biển Việt Nam đi vào thực tiễn cuộc sống, góp phần tăng cường năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển của Lực lượng Cảnh sát biển.
Hai là, làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển nội dung Luật Cảnh sát biển Việt Nam, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, quyết tâm thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển là lực lượng trọng yếu, giữ vai trò đặc biệt quan trọng để hiện thực hóa Luật Cảnh sát biển Việt Nam trong thực thi pháp luật bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Vì vậy, các cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả cao công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm chắc các nội dung đã được quy định trong Luật, nhất là các quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; nguyên tắc tổ chức và hoạt động; xây dựng Cảnh sát biển Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”; các hành vi bị nghiêm cấm; tuần tra, kiểm tra, kiểm soát; hợp tác quốc tế và phối hợp hoạt động; chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ… Từ đó, để mỗi cán bộ, chiến sĩ thấy rõ được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với Lực lượng Cảnh sát biển bằng việc ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật để Lực lượng Cảnh sát biển thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn trên biển; chủ động khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, hiệp đồng, nỗ lực phấn đấu, không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao chất lượng huấn luyện, làm chủ vũ khí trang bị, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với truyền thống Anh hùng cũng như niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Ba là, chủ động, tích cực tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền tiếp tục hoàn thiện về tổ chức, biên chế; tập trung đầu tư, xây dựng Lực lượng Cảnh sát biển “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
Trên cơ sở các quy định của Luật Cảnh sát biển Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật, đề án triển khai thi hành Luật, các cơ quan chức năng cần chủ động, tích cực nghiên cứu, tham mưu cho Thường vụ Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển các nội dung, giải pháp để kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước, Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong lãnh đạo, chỉ đạo, tiếp tục hoàn thiện về tổ chức, biên chế của Lực lượng Cảnh sát biển, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, đề xuất cấp trên tiếp tục đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng, cầu cảng; mua sắm và đóng mới tàu, xuồng, vũ khí trang bị đồng bộ, hiện đại, có thể hoạt động dài ngày trên các vùng biển xa, trong điều kiện thời tiết, khí hậu trên biển phức tạp. Song song với đó, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Đề án xây dựng Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đến năm 2020 và những năm tiếp theo đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Quyết định số 1357/QĐ-BQP ngày 19/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc Tổ chức lại Lực lượng Cảnh sát biển, nhằm xây dựng Cảnh sát biển Việt Nam tinh, gọn, mạnh, có tính chuyên nghiệp cao, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định.
Bốn là, tăng cường công tác phối hợp lực lượng trong triển khai thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam.
Để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân trong việc triển khai thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam, các cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy và toàn thể cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển phải chủ động, tích cực, theo chức năng (chức trách) nhiệm vụ, quyền hạn được giao làm tốt công tác phối hợp lực lượng trong triển khai thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam. Trong đó, cần chú trọng phối hợp với các bộ, ngành liên quan; các tỉnh, thành phố ven biển; các lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ trên biển như: Hải quân, Bộ đội Biên phòng, Công an, Kiểm ngư,… để triển khai các nội dung phối hợp, nâng cao hiệu quả thi hành Luật. Nội dung, hình thức phối hợp phải phong phú, đa dạng, có chiều sâu, coi trọng chất lượng, theo đúng phạm vi, nguyên tắc phối hợp đã được Luật Cảnh sát biển Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật quy định. Trước mắt, tập trung phối hợp lực lượng để tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật và các văn bản quy định chi tiết thi hành với nội dung, hình thức phù hợp cho từng đối tượng nhằm nâng cao nhận thức pháp luật và trách nhiệm trong việc xây dựng Cảnh sát biển Việt Nam; trực tiếp hoặc tham mưu cho Bộ Quốc phòng tổ chức tập huấn Luật Cảnh sát biển Việt Nam cho cán bộ chủ trì các bộ, ngành, địa phương, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và cán bộ liên quan. Qua đó, tạo sự đồng thuận, phát huy vai trò trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai nghiêm túc, hiệu quả Luật Cảnh sát biển Việt Nam tại các bộ, ngành, địa phương và toàn thể nhân dân, nhất là nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển.
Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định.
Phát huy kết quả đã đạt được và quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hoạt động đối ngoại quốc phòng, các nguyên tắc, nội dung, hình thức phối hợp đã được Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định, Lực lượng Cảnh sát biển cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức, lực lượng thực thi pháp luật trên biển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong đó, cần tập trung thực hiện tốt vai trò là thành viên chủ động, tích cực trong các tổ chức ở khu vực và quốc tế mà Cảnh sát biển Việt Nam tham gia; duy trì hiệu quả hoạt động của Trung tâm Chia sẻ thông tin chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền khu vực châu Á; phối hợp tuần tra, kiểm tra, kiểm soát giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm chấp hành pháp luật trên biển; tăng cường cử cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam đi huấn luyện, bồi dưỡng, tập huấn tại các nước có quan hệ phối hợp, hợp tác; tổ chức đón, thăm xã giao lực lượng thực thi pháp luật trên biển của các quốc gia trong khu vực và thế giới,... góp phần nâng cao vị thế, uy tín, năng lực, kinh nghiệm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, nhằm duy trì sự ổn định, môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác trên biển.
Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Luật Cảnh sát biển Việt Nam và các văn bản, đề án thi hành Luật là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của toàn Lực lượng, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn trên các vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc. Chính vì vậy, các cấp ủy, người lãnh đạo, chỉ huy và toàn thể cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển cần xác định rõ trách nhiệm, phát huy hết tinh thần và trí tuệ, tập trung xây dựng Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam vững mạnh, quyết tâm triển khai thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam và các văn bản, đề án liên quan đạt kết quả cao nhất, góp phần xây dựng Lực lượng Cảnh sát biển “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và có tính chuyên nghiệp cao”, xứng đáng là nòng cốt trong thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển./.
Trung tướng, TS. Nguyễn Văn Sơn
Tư lệnh Cảnh sát biển
[1]. BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 36/NQ-TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Hà Nội.
[2]. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội.
[3]. Quốc hội (2018), Luật Cảnh sát biển Việt Nam, Hà Nội.
[4]. Nghị định Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam; Nghị định Quy định việc quản lý, sử dụng và danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ của Cảnh sát biển Việt Nam; Quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành Quy định về trang bị của Cảnh sát biển Việt Nam; Quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng banh hành Quy chế phối hợp hoạt động giữa Cảnh sát biển Việt Nam với các lực lượng thuộc Bộ Quốc phòng; Đề án Tổ chức, tuyên truyền, phổ biến, tập huấn Luật Cảnh sát biển Việt Nam; Đề án Xây dựng cơ sở đào tạo cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam, …