06/06/2017 02:15:00 PM
(Canhsatbien.vn) -
Với một quốc gia có ba mặt giáp biển như Việt Nam thì an ninh biển có tầm quan trọng vô cùng đặc biệt. Trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, biển đảo Việt Nam không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội mà còn có vai trò như cửa ngõ quốc gia làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nước ra hướng biển trên phương diện quốc phòng - an ninh (QP-AN).
Hiểu một cách khái quát, “an ninh biển” là trạng thái ổn định, an toàn, không có các mối đe dọa xuất phát từ biển và các vùng đất đối với các hoạt động bình thường của các nước, các tổ chức, cá nhân trên biển hoặc các mối đe dọa từ biển đối với các hoạt động bình thường của các nước, các tổ chức, cá nhân trên đất liền. Dưới góc độ QP-AN, an ninh biển bao gồm cả an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Trong xu thế phát triển của khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay thì an ninh phi truyền thống (ANPTT) ngày càng có tính phổ biến, đáng quan ngại. Trong lịch sử của mình, chưa có khi nào nhân loại đạt được những bước tiến dài trên con đường phát triển như ngày nay, nhưng cũng chưa bao giờ con người phải đối mặt với những nguy cơ đe dọa đến chính sự tồn vong của mình như bây giờ. Đó là tình trạng cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thảm họa thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia... Các vấn đề ANPTT trên biển cũng bao gồm những nội dung trên.
Gần đây, các vấn đề ANPTT trên biển có xu hướng gia tăng và đang tạo ra thách thức mới đối với tính vững chắc của QP-AN và ổn định của khu vực, đe dọa đến sự phát triển của quốc gia. Đảng ta nhận định: “Các yếu tố đe dọa ANPTT, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp”. Mối đe dọa ANPTT đã và đang thách thức đối với nền độc lập dân tộc, nhất là trong điều kiện an ninh trên vùng biển, đảo có những bất ổn như hiện nay: Đó là nạn khủng bố, cướp biển, vận chuyển ma túy, xuất nhập cư trái phép; buôn lậu, gian lận thương mại trên biển; biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên biển; các tập đoàn kinh tế nước ngoài lợi dụng đầu tư, liên kết, liên doanh cùng khai thác để chi phối, khống chế nền kinh tế biển...
Thực tiễn cho thấy, tình hình an ninh hàng hải khu vực Biển Đông thời gian qua diễn biến rất phức tạp và có chiều hướng gia tăng các vụ việc nghiêm trọng, gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng lớn đến môi trường an ninh trên biển. Theo thống kê của Lực lượng CSB Việt Nam, những năm qua đã có một số tàu vận tải biển của Việt Nam bị cướp biển tấn công; gia tăng số vụ xô xát trên vùng biển Vịnh Thái Lan giữa ngư dân Việt Nam với tàu Thái Lan và Campuchia; hơn 70 tàu cá Việt Nam bị bắt giữ trên các vùng biển giáp ranh với Indonesia, Thái Lan, Campuchia và Malaysia; nhiều tàu thuyền nước ngoài đã tấn công, đâm, gây thiệt hại cho tàu cá của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Điều đáng chú ý là, phát triển kinh tế biển là một mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố QP-AN ở nước ta. Kinh tế biển bao gồm nhiều ngành: hàng hải (vận tải biển); đánh bắt và nuôi trồng hải sản; khai thác dầu khí; du lịch biển; diêm nghiệp; dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; phát triển kinh tế đảo… Trong đó, hàng hải ở nước ta đang là ngành có tiềm năng lớn vì Việt Nam có lợi thế là vùng biển nằm ngay trên một số tuyến hàng hải chính của quốc tế qua Biển Đông, trong đó có tuyến đi qua eo biển Malacca - là một trong những tuyến có lượng tàu bè qua lại nhiều nhất thế giới. Theo dự báo, trong một vài thập kỷ tới, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của các nước trong khu vực, sẽ gia tăng khối lượng hàng hóa vận chuyển qua Biển Đông gấp hai, ba lần hiện nay, khi đó Biển Đông nói chung và vùng biển Việt Nam nói riêng càng có vai trò to lớn trong thương mại thế giới, vùng biển Việt Nam sẽ trở thành chiếc cầu nối quan trọng để phát triển kinh tế trong nước và giao thông thương mại quốc tế. Trong khi đó, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại trên biển với các phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt cũng là nguy cơ, thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng nói chung và LL CSB nói riêng. Vì vậy, việc chủ động ngăn ngừa các mối đe dọa ANPTT sẽ tạo lập được một môi trường chính trị ổn định, gia tăng các mối quan hệ thương mại trên biển giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới.
Bên cạnh đó, đánh bắt hải sản là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước ta, là yếu tố nòng cốt trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội biển, đảo đó là: khai thác tiềm năng nguồn lợi hải sản phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tạo công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển; đảm bảo sự hiện diện, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc ở nước ta là sức mạnh phát huy khối đoàn kết toàn dân tộc, trên tất cả các phương diện. Ngư dân là lực lượng quan trọng trong xác lập và thực hiện chủ quyền quốc gia trên biển, họ chỉ thực sự an tâm ra khơi khi được tuyên truyền và bảo vệ bằng pháp luật về biển, được bảo đảm sự an toàn về tính mạng và tài sản thông qua “lá chắn” hoạt động tuần tra, kiểm soát, thực thi nhiệm vụ trên biển của LL CSB.
Một trong những mối đe dọa của ANPTT với an ninh biển hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường biển. Ở nước ta những năm vừa qua, tình trạng biến đổi khí hậu cùng với việc quản lý chưa chặt chẽ hoạt động khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường biển dẫn đến thực trạng nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững; môi trường biển ở một số nơi bị ô nhiễm đến mức báo động; nạn phá hủy rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn cũng ngày một tăng. Cùng với đó, tình trạng đánh bắt thủy sản bằng chất huỷ diệt, đánh bắt cá thể non, đánh cắp san hô vẫn diễn ra làm giảm đa dạng sinh học trên biển; độ đục của nước biển tăng cao do ảnh hưởng của hoạt động trên vịnh và ven bờ làm cho san hô bị chết nhiều; làm tăng khả năng bị tổn thương, là nguy cơ làm chậm quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Mặt khác, trong điều kiện bùng phát của công nghệ thông tin, xuất hiện một loại tội phạm mới rất nguy hiểm, đe dọa trực tiếp tới QP-AN, đó là tội phạm an ninh mạng, tội phạm công nghệ cao. Các đối tượng này tìm cách đánh cắp các thông tin mật về an ninh quốc gia, về chiến lược phát triển kinh tế, quân sự - quốc phòng, về sách lược ứng phó các vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển… Thông qua đó, lợi dụng “diễn biến hòa bình”, các lực lượng này sẽ “tung hỏa mù”, đưa “ý kiến tham luận” để gây chia rẽ nội bộ, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng trong giải quyết các sự việc liên quan đến vấn đề an ninh biển, ô nhiễm môi trường biển gây tổn hại nghiêm trọng đến hiệu quả công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế của Việt Nam với các quốc gia, khu vực.
Điều cần đặc biệt chú ý là, sự xuất hiện ANPTT trên vùng biển, đảo không biệt lập với an ninh truyền thống (bảo vệ đất nước trước các mối đe dọa hoặc tấn công bằng chính trị, quân sự từ bên ngoài và bên trong). Nó có thể xâm nhập và chuyển hóa nhau như từ việc tranh chấp quyền lực, lãnh thổ trên biển đang từng bước chuyển hóa thành tranh chấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội từ biển, đảo (kinh tế hóa chính trị). Hay việc tận dụng ưu thế đi trước, có trình độ khoa học công nghệ trong làm chủ, khai thác nguồn lực kinh tế biển để chủ động sử dụng các thủ đoạn, cơ hội làm sâu sắc thêm mâu thuẫn, trầm trọng thêm những khó khăn nhằm đẩy nhanh việc xóa bỏ chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị của nước khác.
An ninh quốc gia nói chung, an ninh biển nói riêng chỉ thực sự được đảm bảo khi mọi quá trình phát triển phải gắn với tính bền vững. Vì vậy, để giải quyết các thách thức ANPTT trên biển, một mặt nước ta cần huy động tối đa nội lực (sức mạnh kinh tế, chính trị - tinh thần, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ…); mặt khác phát huy yếu tố ngoại lực, mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác quốc tế trên những nguyên tắc cơ bản, vì mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Trong xu thế hiện nay, lực lượng vũ trang nói chung, LL CSB nói riêng cần chú trọng thực hiện một số nội dung sau:
Một là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các mối đe dọa ANPTT trên vùng biển, đảo.
Các cấp ủy Đảng cần chú trọng tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và toàn thể nhân dân về tính nguy hại của thách thức ANPTT ở vùng biển, đảo; quyền lợi, trách nhiệm của công dân trong phòng, chống thách thức ANPTT. Định hướng biện pháp giải quyết hài hòa mối quan hệ tương tác giữa an ninh truyền thống và ANPTT trong bối cảnh toàn cầu hóa đồng thời ứng phó với ANPTT ở vùng biển, đảo một cách chủ động, linh hoạt.
Tiếp tục giáo dục, tuyên truyền quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới theo Nghị quyết số 28-NQ/TW nhằm tạo nên sự thống nhất rộng rãi trong nhận thức của toàn quân về yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trước các mối đe dọa ANPTT. Cùng với đó, cần chủ động dự báo những mối đe dọa của ANPTT đối với công cuộc giữ vững chủ quyền biển đảo, việc dự báo phải thấy được những uy hiếp từ các mối đe dọa đó, đặc biệt đối với những vấn đề liên quan trực tiếp đến đất nước, đến đời sống nhân dân, đến biến đổi khí hậu, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, thiên tai... Việc dự báo cũng phải tính đến âm mưu, thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế về khai thác tài nguyên, du lịch biển, ứng phó với các mối đe dọa ANPTT trong khu vực để chống phá nền độc lập dân tộc của đất nước.
Hai là: Tăng cường công tác đối ngoại quốc phòng và hợp tác quốc tế trong giải quyết các vấn đề biển, đảo.
Tích cực mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức trong khu vực và quốc tế để trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và phối hợp chặt chẽ, tạo nguồn lực và sức mạnh tổng hợp để đối phó có hiệu quả với những thách thức từ ANPTT, nhất là vấn đề về thảm họa thiên tai do biến đổi khí hậu, khủng bố, nạn cướp biển, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển đảo, dịch bệnh cùng các thảm họa về môi trường… Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác, phối hợp với các nước và tổ chức quốc tế, cơ quan an ninh nhằm thiết lập hành lang pháp lý, xây dựng cơ chế hợp tác với các nước trong khu vực và quốc tế. Chú trọng tăng cường hợp tác với các nước ASEAN để phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên, bảo đảm an ninh biển, cùng với các chương trình, kế hoạch và cơ chế phù hợp.
Tuyên truyền và phối hợp với các lực lượng quân sự nước bạn, nhất là các nước có chung biên giới trên biển về công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo kịp thời tác động của ANPTT trên biển... Tham gia tích cực và có trách nhiệm vào tiến trình hợp tác quốc tế, khu vực trong phòng chống thách thức ANPTT vùng biển, đảo. Xử lý đúng đắn mối quan hệ chiến lược giữa an ninh sinh tồn và an ninh phát triển ở các vùng biển, đảo chiến lược.
Tích cực tham gia các cơ chế đối thoại khu vực và quốc tế để tăng cường, mở rộng hợp tác nội khối ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác trong phòng chống thách thức ANPTT trên biển. Tăng cường Hội nghị, diễn đàn đối thoại của các Tư lệnh Hải quân, Không quân, Cảnh sát biển ASEAN... Đây là các kênh đối thoại tầm chiến lược để các nước ASEAN và ASEAN với các nước đối tác trao đổi quan điểm, tạo sự đồng thuận trong nhận thức; xác định cơ chế, chính sách hợp tác trong đối phó với các thách thức ANPTT nói chung và ANPTT trên biển nói riêng phù hợp với thông lệ quốc tế và mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia.
Ba là: chú trọng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo QP-AN vùng biển, đảo.
Nhất quán quan điểm: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa - xã hội với QP-AN trong từng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo…” , đầu tư xây dựng các chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên biển, kết hợp chú trọng phát triển môi trường xanh, bền vững, đồng thời tăng cường đầu tư các nguồn lực và hoạch định cơ chế chính sách xã hội hóa trong phòng, chống thảm họa thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Việc phát triển công nghiệp, vận tải biển và công nghiệp ven bờ cần nằm trong tính tổng thể với Chiến lược phát triển kinh tế biển, chủ động phòng ngừa những hệ lụy đối với môi trường biển như đã xảy ra.
Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa với xây dựng thế trận QP-AN trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và phát huy lực lượng tại chỗ phục vụ chiến lược QP-AN trên biển. Điều chỉnh Chiến lược phát triển kinh tế biển kết hợp với tăng cường QP-AN trên biển phù hợp với tư duy mới về biển và đại dương;
LL CSB cần tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững chắc ở vùng biển, huyện đảo. Cùng với nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát, thực thi nhiệm vụ trên biển, phối hợp các lực lượng khác tham gia tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, chống buôn lậu, gian lận thương mại, tuyên truyền về pháp luật cho ngư dân... Tiếp tục đẩy mạnh giáo dục QP-AN cho toàn dân, phối hợp Lực lượng Hải quân, chính quyền địa phương trong thực hiện công tác vận động ngư dân bám biển, phát triển kinh tế, an cư lập nghiệp ở các huyện đảo.
Cần xây dựng Lực lượng Kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ việc khai thác, đánh bắt hải sản của ngư dân trên biển, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên biển; đồng thời kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn các hành động khai thác hải sản trái phép của nước ngoài trên vùng biển của Việt Nam. Các địa phương ven biển, huyện đảo phải có lực lượng dân quân tự vệ vừa tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trên biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành động xâm phạm lợi ích, chủ quyền quốc gia./.
Trung tá, ThS. Đỗ Thị Quỳnh Anh
Khoa Lý luận Mác – Lênin/ Trường Sĩ quan Lục quân 2