06/12/2017 03:47:00 PM
(Canhsatbien.vn) -
Là quốc gia nằm ở cực Đông Nam châu Á, nhìn ra Thái Bình Dương, có diện tích biển khá rộng và bờ biển dài hơn 3.260km, nối với đất liền bằng những tuyến giao thông quan trọng, với nhiều cửa sông, bến cảng, hải đảo quan trọng, giàu tài nguyên, khoáng sản, từ rất sớm dân tộc Việt Nam đã giao thương với các quốc gia trong châu lục; tiếp nhận ảnh hưởng của nhiều nền văn minh nhân loại. Biển nước ta lại tiếp giáp với một nước láng giềng rộng lớn, nhiều tham vọng. Với điều kiện tự nhiên như vậy, nên biển đảo Việt Nam luôn là mục tiêu trọng yếu mà các thế lực xâm lược muốn chiếm giữ hòng làm bàn đạp thực hiện mưu đồ bành trướng bá quyền. Vì thế dân tộc ta đã phải trải qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước đầy cam go, quyết liệt.
Lịch sử hơn 4.000 năm dựng nước, giữ nước của dân tộc đã chứng minh vị trí chiến lược, đặc biệt quan trọng của công cuộc phòng thủ quốc gia từ hướng biển. Những chiến công oanh liệt trong lịch sử chống ngoại xâm trên biển đã khẳng định, biển, đảo là lá chắn đặc biệt quan trọng để bảo vệ, giữ gìn nền độc lập dân tộc trước sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Vì vậy, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh biển, đảo của Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Điều này đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các lực lượng, trong đó nòng cốt là Hải quân, Cảnh sát biển, Kiểm ngư, Biên phòng...
Tác phẩm “Sức mạnh chính nghĩa trên Biển Đông”. Ảnh: Nguyễn Đăng KHoa
Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta thể hiện rõ quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc; chủ trương phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại bảo vệ chủ quyền biển đảo trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Quan điểm đó đã thể hiện rõ trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; đặc biệt là “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020” và Nghị quyết TW 4 (Khóa X): “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”. Trong những năm qua, quán triệt quan điểm của Đảng, toàn dân (cả kiều bào ở nước ngoài), toàn quân đã hướng về biển đảo, thực hiện phương châm: kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển (năm 1982) và đã đạt được kết quả quan trọng, vừa giữ vững chủ quyền biển đảo vừa giữ được tình hữu nghị và đoàn kết quốc tế, đặc biệt là với Trung Quốc. Tuy nhiên, lĩnh vực quốc phòng - an ninh trên biển, đảo của nước ta hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề phải quan tâm hơn. Những nhân tố gây mất ổn định, vi phạm chủ quyền, an ninh luôn tiềm ẩn; nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp trên biển đảo vẫn chưa được loại trừ, thậm chí gia tăng. Gần 3 năm sau vụ hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trong vùng thềm lục địa nước ta, Trung Quốc vẫn có lúc công khai, lúc ngấm ngầm, xâm phạm chủ quyền biển, đảo nước ta; những hành động đó ngày càng gay gắt, quyết liệt với sự xuất hiện một số động thái và xu hướng mới. Một số nước trong khu vực đã điều chỉnh chiến lược từ duy trì quyền lợi tự do đi lại trên biển, đến tiếp tục theo đuổi mục tiêu chiến lược lấn chiếm biển, đảo của nước ta. Vì thế họ đẩy mạnh các hoạt động và tiến hành hàng loạt biện pháp, thủ đoạn để từng bước độc chiếm, gây mất ổn định, an ninh biển đảo, đe dọa nghiêm trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trước các động thái đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm tăng cường đối thoại; phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ đoàn kết quốc tế để giải quyết các tranh chấp chủ quyền biển đảo, giữ vững an ninh quốc gia, ngăn ngừa xung đột, tạo môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác để phát triển đất nước.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay là: “...kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ công cuộc đổi mới sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ nền văn hóa dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội”; “kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc”. Nghị quyết Đại hội XII cũng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”.
Từ thực trạng chủ quyền, an ninh biển đảo của nước ta hiện nay đang đặt ra những vấn đề mới; đồng thời quán triệt và thực hiện thắng lợi quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc tại Đại hội XII, theo đó, trong thời gian tới, chúng ta cần nghiên cứu một số định hướng cơ bản sau đây:
Trước hết, trên cơ sở đánh giá tổng thể năng lực bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh (QP-AN) vững chắc.
Định hướng phát triển KT-XH trong Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020 của Đảng đối với vùng biển, ven biển và hải đảo xác định: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế, tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển ngành công nghiệp năng lượng, đóng tàu, xi măng, chế biến thủy sản chất lượng cao… Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải…vv. Phát triển cảng biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, sông - biển; phát triển các đội tàu, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển. Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của từng đảo”.
Trong quá trình phát triển KT-XH kết hợp với xây dựng thế trận QP-AN, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Với lợi thế về bờ biển dài, vùng biển rộng, khu vực biển, đảo của ta có tiềm năng kinh tế lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta phát triển nhiều ngành kinh tế quan trọng như: khai thác dầu khí, khoáng sản, thủy sản, sinh vật biển, du lịch, vận tải... Biển, đảo của chúng ta không những là khu vực phát triển kinh tế nhiều tiềm năng, là nơi án ngữ các trục giao thông huyết mạch trên biển. Cùng với nguồn lợi về tài nguyên, kinh tế biển, biển, đảo còn là môi trường tác chiến quan trọng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, từng ngành, từng địa phương cần nghiên cứu kỹ lưỡng để phát huy tốt nhất tiềm năng, thế mạnh phát triển KT-XH; đồng thời, tích cực tham gia phát triển kinh tế biển cho phù hợp.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Tiếp tục điều chỉnh Chiến lược phát triển kinh tế biển kết hợp với tăng cường QP-AN trên biển phù hợp với tư duy mới về biển và đại dương; cụ thể hóa các nội dung chiến lược bằng quy hoạch, kế hoạch, các dự án và bằng pháp luật, chính sách phù hợp với tình hình thực tế; tiếp tục đẩy mạnh giáo dục QP-AN biển cho các cấp, các ngành và toàn dân, chú trọng hơn đối với các lực lượng trực tiếp hoạt động trên biển, đảo; nghiên cứu sâu hơn về chiến lược biển của các nước trong khu vực và thế giới để học tập kinh nghiệm, đề ra các chính sách phù hợp nhằm bảo vệ hiệu quả chủ quyền quốc gia trên biển, đảo.
Hai là, thực hiện Chiến lược bảo vệ chủ quyền quốc gia biển đảo thời kỳ hội nhập quốc tế cần nắm vững quan điểm: chủ động, tích cực, phòng ngừa.
Quản lý và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển đảo thời kỳ hội nhập quốc tế là vấn đề đặc biệt quan trọng được xác định là một nội dung cần được các cấp, các bộ, ngành quan tâm, phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo để tạo sự đồng thuận và sức mạnh toàn diện, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Cần chú trọng phát huy tính chủ động, tích cực, phòng thủ, phòng ngừa trong đấu tranh QP-AN. Chỉ có như vậy mới quản lý, bảo vệ vững chắc biển đảo Tổ quốc. Trong quá trình hội nhập quốc tế, bên cạnh những thuận lợi chắc chắn sẽ có những diễn biến phức tạp, khó lường, luôn có tác động nhiều mặt đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nếu phát huy tốt tính chủ động, tích cực ngay trong xây dựng, chuẩn bị và quá trình đấu tranh quốc phòng sẽ giúp giải quyết có hiệu quả những tình huống khó khăn phức tạp, không bị động, bất ngờ, kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi mọi nguy cơ xung đột, chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Chủ động, tích cực trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo được thể hiện trước hết ở ý thức cảnh giác, thường xuyên theo dõi nắm chắc tình hình, tổ chức thu thập, phân tích và tăng cường chất lượng dự báo mang tính chiến lược những diễn biến có liên quan tới QP-AN, chủ quyền biển đảo. Nắm tình hình đòi hỏi phải toàn diện, chủ động kết hợp nhiều nguồn, nắm cả về địch, về ta, cả trong và ngoài nước, từ xa đến gần, trên đất liền và trên biển, đảo... Có vậy, chúng ta mới luôn chủ động trong phân tích, đánh giá, có đối sách đúng đắn, chính xác, kịp thời trong xử lý tình huống và không để bị động, bất ngờ trước bất cứ tình huống nào diễn ra.
Chủ động, tích cực còn thể hiện trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo củng cố xây dựng tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng, xây dựng biển đảo vững mạnh toàn diện; xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biển đảo đủ sức hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong quá trình hội nhập quốc tế. Tính chủ động, tích cực biểu hiện cụ thể trong tiến trình hội nhập quốc tế, vừa hợp tác vừa đấu tranh; chủ động trong vận dụng đúng đắn các đối sách kết hợp với nhiều biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ, loại trừ mọi mầm mống địch có thể lợi dụng tạo cớ can thiệp.
Sức mạnh quốc phòng của đất nước vững mạnh phải dựa trên cơ sở tổ chức phòng thủ vững chắc. Tính vững chắc trong phòng thủ đất nước được thể hiện ở sự kết hợp toàn diện giữa các mặt, các lĩnh vực, các cấp, các ngành; kết hợp giữa lực lượng quốc phòng với thế trận quốc phòng; giữa đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị, ngoại giao, văn hóa và sẵn sàng kết hợp với đấu tranh bằng lực lượng an ninh và quân sự khi cần thiết. Muốn bảo vệ vững chắc biển đảo trong thời kỳ hội nhập quốc tế, chúng ta cần tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế giải quyết vấn đề biển, đảo, xây dựng tình hữu nghị với các nước láng giềng; đẩy mạnh quan hệ hợp tác biên phòng với các nước trong khu vực và thế giới, thực hiện quan điểm “trong ấm, ngoài êm” “kiên quyết, kiên trì”, bảo đảm trong sạch, ổn định từ bên trong, đồng thời ngăn chặn mọi nguy cơ tác động từ bên ngoài; có biện pháp chủ động, tích cực phối hợp đấu tranh, ngăn chặn những quan điểm sai trái, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch ngay từ bên ngoài.
Ba là, có kế hoạch, quy hoạch, đầu tư và phát triển KT-XH kết hợp với xây dựng thế trận QP-AN với lộ trình thích hợp.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng về chiến lược biển đảo, Đảng, Nhà nước đã sớm ban hành các chỉ thị, nghị quyết, chiến lược liên quan đến các vùng biển, đảo của Tổ quốc và khẳng định phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước mạnh về biển là một mục tiêu chiến lược xuất phát từ các yêu cầu và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm qua, mặc dù tiềm lực kinh tế đất nước còn hạn chế, song chúng ta đã chủ động tăng cường đầu tư phát triển KT-XH, kết hợp với xây dựng phát triển thế trận QP-AN trên biển. Tuy nhiên, tốc độ đầu tư phát triển còn chậm so với nhiều quốc gia trong khu vực, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế cũng như chưa đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Trong phát triển KT-XH và xây dựng thế trận QP-AN trên biển, đảo, chúng ta cần có kế hoạch, quy hoạch tổng thể (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) với lộ trình hợp lý, phù hợp với tiềm năng, khả năng của đất nước và yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi. Từng bước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo thế đứng chân ổn định, vững chắc, sẵn sàng đối phó với các tình huống phức tạp xảy ra trên biển. Xây dựng cơ sở hạ tầng trên các đảo thuộc quần đảo; đầu tư xây dựng các công trình bảo đảm đời sống cho bộ đội và nhân dân trên đảo. Các lực lượng chuyên trách được xây dựng để từng bước thực hiện quản lý nhà nước trên các vùng biển thông qua việc xây dựng các lực lượng và phương tiện để chỉ huy điều hành cứu hộ, cứu nạn trên biển như: hệ thống quan sát, trinh sát, cảnh giới từ xa, thông tin liên lạc hàng hải; thành lập đội tàu tuần tra Cảnh sát biển, Biên phòng, Kiểm ngư, Hải quan; tăng cường trang bị cho Lực lượng Cảnh sát biển; xây dựng hệ thống đèn biển, đầu tư hỗ trợ cho ngư dân phát triển nghề đánh bắt thủy hải sản xa bờ. Đầu tư xây dựng các công trình cảng, cầu cảng và khu dịch vụ hậu cần nghề cá trên các đảo và một số điểm ven bờ, đóng mới nhiều tàu dịch vụ hậu cần nghề cá. Hỗ trợ đầu tư cho các hoạt động tuyên truyền về chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc trên biển, đảo. Đồng thời, tiến hành các hoạt động đấu tranh ngoại giao; nghiên cứu, khảo sát và điều tra, từng bước hoàn chỉnh bộ hồ sơ cơ bản về quản lý, bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển khác... Tích cực nghiên cứu khoa học về biển, những vấn đề quân sự, QP-AN trên biển đảo, nhất là về sức chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biển của các lực lượng vũ trang trên biển và ven bờ, từng bước bảo đảm thế trận QP-AN trên biển có kế hoạch, hiệu quả hơn.
Bốn là, tiếp tục xây dựng lực lượng, tổ chức điều chỉnh, bố trí và triển khai thế trận QP-AN, kết hợp phát triển KT-XH trên vùng biển, đảo hợp lý.
Kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng thế trận QP-AN đối với vùng biển, đảo của ta trong những năm tới cần tập trung trước hết vào xây dựng hoàn chỉnh chiến lược phát triển KT-XH, từng bước tổ chức, điều chỉnh, bố trí tiềm lực QP-AN theo hướng cơ bản, toàn diện, lâu dài trong vùng biển, đảo của nước ta; cần có quy hoạch, kế hoạch từng bước đưa dân ra vùng ven biển và các tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, trụ bám, phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo của ta vững chắc, lâu dài. Có chính sách khuyến khích mở rộng, liên kết làm ăn kinh tế ở vùng biển thuộc quyền chủ quyền của ta với những nước phát triển, nhằm tạo ra những đối tác đan xen lợi ích; qua đó khẳng định chủ quyền đất nước, hạn chế âm mưu lấn chiếm biển, đảo của các thế lực thù địch, tạo thế và lực để giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển, đảo. Chú trọng chương trình phát triển đánh bắt xa bờ, tổ chức thành các tập đoàn lực lượng luân phiên có mặt trên vùng đặc quyền kinh tế của ta, thông qua phát triển lực lượng đánh bắt cá xa bờ mà tổ chức các hải đoàn tự vệ để phối hợp với lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền biển, đảo của ta. Xây dựng một số đơn vị kinh tế - quốc phòng mạnh trên biển, đảo để làm nòng cốt phát triển kinh tế biển và tạo thế trận biển, đảo vững chắc. Xây dựng các phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra, tránh để bị động bất ngờ; trong đó, đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận phòng thủ trên biển, đảo. Trước mắt, cần tập trung ưu tiên hiện đại hóa các lực lượng thực thi pháp luật trên biển gồm Hải quân, Cảnh sát biển, Kiểm ngư... đủ sức canh giữ, bảo vệ vùng biển, đảo rộng lớn và hết sức quan trọng của Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Biển, đảo của ta có vị trí địa chiến lược đặc biệt quan trọng để phát triển KT-XH và xây dựng thế trận QP-AN. Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, góp phần bổ sung cả về lý luận, thực tiễn để thực hiện thắng lợi Chiến lược bảo vệ Tổ quốc nói chung và biển đảo nói riêng trong thời kỳ mới. Đảng, Nhà nước cần tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành chức năng sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, quy định, quy chế phối hợp giữa các lực lượng; đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao hơn nữa nhận thức cho toàn dân về thực hiện Chiến lược bảo vệ chủ quyền an ninh biển, đảo quốc gia. Rà soát xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về biển đảo và tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với biển đảo Việt Nam trong tình hình mới./.
Đại tá, ThS. Lê Hùng Sơn - Viện Chiến lược Quốc phòng