16/11/2025 03:51:00 PM
(Canhsatbien.vn) -
Đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết nhằm góp phần quan trọng vào việc bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ trước sự chống phá ngày càng mạnh mẽ, tinh vi của các thế lực thù địch.
Thời gian gần đây, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách đẩy mạnh tuyên truyền, phát tán những thông tin sai sự thật, xuyên tạc về tình hình Biển Đông cũng như xuyên tạc về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển đảo. Mục tiêu của việc làm đó là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá chế độ, gây chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gây tổn hại, chia rẽ quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và làm cho Việt Nam rơi vào tình trạng đối đầu, bị cô lập.
Để từng bước hiện thực hóa mục tiêu đó, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng những diễn biến phức tạp trên Biển Đông để kích động một bộ phận nhân dân biểu tình, tuần hành, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, từ đó tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng, gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thủ đoạn quen thuộc mà các thế lực thù địch thường sử dụng, đó là triệt để lợi dụng một số vụ việc phức tạp, “điểm nóng” trên Biển Đông, nhất là mỗi khi nước ngoài có các hành động gây hấn, xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, thì ngay lập tức, trên các tờ báo, đài phát thanh phản động ở nước ngoài, như: BBC, Đài Á Châu tự do (RFA), các trang mạng xã hội, như: Facebook, YouTube, Twitter, Zalo,… đều đồng loạt tăng cường phát tán tài liệu, hình ảnh, video xuyên tạc về vấn đề này. Thậm chí còn rêu rao, xuyên tạc rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam “nhu nhược”, “hèn nhát” cả trong chủ trương, đường lối, chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo cũng như trong đối sách chỉ đạo xử lý các vụ việc phức tạp trên biển. Chúng ra sức tuyên truyền, đánh giá sai lệch về năng lực, khả năng bảo vệ chủ quyền biển đảo của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói chung, Hải quân nhân dân Việt Nam, Cảnh sát biển Việt Nam nói riêng; cho rằng: sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”, trong khi đó Việt Nam lại chủ trương thực hiện “bốn không” trong chính sách đối ngoại thì chẳng khác nào “tự mua dây buộc mình”, không có lợi trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Do đó, chúng cho rằng, Việt Nam cần liên minh quân sự với các nước lớn có tiềm lực quân sự, quốc phòng mạnh, mới bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo quốc gia. Không những thế, chúng còn kích động, cổ súy cho việc “sử dụng vũ lực” trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo; cho rằng trước những hành động gây hấn, ngang nhiên xâm chiếm, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên các vùng biển, đảo Tổ quốc, nếu không nổ súng là “nhu nhược, hèn nhát”; đồng thời, hô hào cổ súy tư tưởng “bài Trung, thân Mỹ”, kích động biểu tình, đập phá tài sản, gây bạo loạn, đòi “tẩy chay hàng hóa Trung Quốc và các doanh nghiệp liên doanh liên kết với Trung Quốc; hướng lái dư luận đấu tranh đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì mới có đủ sức mạnh để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo (!);
Đây là thủ đoạn hết sức thâm độc hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, làm giảm uy tín, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, Cảnh sát biển Việt Nam nói riêng. Đồng thời, tạo ra sự mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, gây mất đoàn kết trong nước và quốc tế, làm tổn hại tới lợi ích quốc gia, dân tộc.
Thực tế cho thấy, mỗi khi chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông bị xâm phạm, thì không chỉ người phát ngôn của Bộ Ngoại giao, mà lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta ngay lập tức thể hiện quan điểm kiên quyết phản đối những hành động xâm phạm của nước ngoài, quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đồng thời, thông qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao để lên án những hành vi vi phạm chủ quyền trên biển, đảo Việt Nam. Cùng với đó, Việt Nam luôn chủ động, tích cực và kiên trì giải quyết từng bước những bất đồng tồn tại về biên giới lãnh thổ trên biển và đất liền với các nước liên quan, nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hòa bình, an ninh khu vực; tăng cường vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Bằng trải nghiệm xương máu trong lịch sử về hậu quả của chiến tranh, chúng ta cực lực phản đối chiến tranh, xung đột dưới bất cứ hình thức nào. Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng nói chung, liên quan đến biển, đảo nói riêng bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, pháp luật quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời, sẵn sàng về lực lượng, phương án, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Đây là biện pháp thể hiện sự khôn khéo, mềm dẻo về sách lược, nhưng rất kiên quyết về nguyên tắc của Đảng và Nhà nước ta để đạt được mục tiêu đề ra, chứ không phải là “nhu nhược, hèn nhát”, “làm ngơ về Biển Đông” như những luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động, cơ hội chính trị đã và đang rêu rao trên các trang mạng xã hội. Việc làm đó còn cho thấy sự nhất quán, linh hoạt, sáng tạo thực hiện tốt phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong giải quyết các vấn đề tranh chấp, cũng như trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Theo đó, chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất biến, bất khả xâm phạm; còn về sách lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo thì cần phải mềm dẻo, linh hoạt và phải thường xuyên chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cũng như sự diễn biến phức tạp, mau lẹ của tình hình biển đảo,… để tùy cơ ứng biến, bảo đảm đúng phương châm, đối sách.
Về vấn đề liên minh quân sự, trước hết, cần khẳng định quan điểm “bốn không” trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, hoàn toàn không phải để “tự trói mình” như những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời, không hề mâu thuẫn với chủ trương: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”. Thực tế cho thấy, nhờ nhất quán và thực hiện đúng chủ trương, quan điểm đó trong đường lối đối ngoại của mình, Việt Nam đã tạo được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đem lại lòng tin chiến lược - một nền tảng hết sức quan trọng cho các đối tác, các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mặc dù Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, bạn bè, nhân dân tiến bộ trên thế giới, nhưng chúng ta vẫn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, chính nghĩa, nên đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và thời đại - một nhân tố quan trọng giúp chúng ta giành thắng lợi. Đây là một trong những bài học được rút ra trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta. Vì vậy, muốn bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, không thể ảo tưởng trông chờ vào liên minh nào. Mặt khác, theo logic của vấn đề, lợi ích của việc liên minh quân sự chắc chắn phải đạt được từ hai phía: nước nhỏ có thể tránh được nguy cơ mất chủ quyền biển, đảo và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc mình trước một mối đe dọa nào đó từ bên ngoài, nhưng phải tính đến cái giá phải trả cho sự “bảo lãnh” từ đồng minh. Đó là “luật chơi” thường thấy trong quan hệ quốc tế hiện nay. Như vậy, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều khẳng định, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Việt Nam là phải tự lực, tự cường, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, dựa vào sức mình là chính, song luôn tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè và cộng đồng quốc tế, nhân dân tiến bộ trên thế giới để bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Đó cũng chính là lời giải cho bài toán “chọn phe” trong bối cảnh hiện nay.
Các thế lực thù địch còn vin vào tình hình ngư dân Việt Nam đánh bắt hải sản ở vùng biển của quốc gia khác (do không nắm chắc ngư trường), bị lực lượng chấp pháp của nước sở tại bắt bớ, thu giữ ngư lưới cụ,… để rồi tuyên truyền, gieo rắc luận điệu xuyên tạc rằng, “ngư dân bị bỏ rơi”(!) Đây là luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật hết sức thâm độc hòng gây chia rẽ, làm suy giảm niềm tin của ngư dân đối với Đảng, Nhà nước; gây chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Quân đội với nhân dân và làm suy yếu thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trên biển.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước cũng như các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương ở các tỉnh, thành ven biển luôn đặc biệt quan tâm, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp hỗ trợ ngư dân vươn khơi, bám biển. Lực lượng vũ trang, đặc biệt là Bộ đội Hải quân, Biên phòng, Cảnh sát biển,… đã và đang thực hiện có hiệu quả nhiều chương trình, đề án, như: Đề án “Hải quân nhân dân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển”; Chương trình “Cảnh sát biển đồng hành với ngư dân”; Chương trình “Bộ đội Hải quân nhận đỡ đầu con ngư dân”,… Theo đó, những luận điệu cho rằng “ngư dân bị bỏ rơi” là hoàn toàn xuyên tạc, bịa đặt, sai sự thật với dụng ý xấu, cần phải hết sức cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, phản bác.
Không những thế, các thế lực thù địch còn tập trung đào bới lịch sử, trắng trợn xuyên tạc lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại hang Đầu Gỗ (khi Người về thăm Bộ đội Hải quân lần thứ hai): “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Chúng lập luận một cách hàm hồ rằng, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đứng đầu Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận “Việt Nam chỉ có rừng chứ không hề có biển”. Sở dĩ ngày nay Việt Nam có biển, có đảo là do Việt Nam đã đi xâm lược, thôn tính biển đảo của nước khác (!).
Luận điệu trên hoàn toàn sai trái, phản động, phản khoa học, phi logic, hết sức phi lý và vô cùng thâm độc. Đó là sản phẩm của lối suy diễn theo kiểu “chẻ chữ”, cắt ghép một cách máy móc, cơ học, cố tình làm ngơ hoặc giả vờ như không biết đặc điểm tình hình của đất nước ta trong bối cảnh bị thực dân, đế quốc đô hộ một cách siêu hình, phi lịch sử.
Sự thâm độc của luận điệu trên thể hiện ở chỗ, không những phủ nhận vai trò và sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, Bác Hồ kính yêu, mà còn phủ nhận mọi thành quả cách mạng mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã chẳng quản ngại hy sinh gian khổ với biết bao mồ hôi, xương máu của lớp lớp cha anh đã đổ mới giành lại được nền tự do, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ như ngày hôm nay. Không những thế, luận điệu đó còn tập trung, hướng vào “đánh tráo khái niệm”, gây bất lợi cho cuộc đấu tranh khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, đó là biến cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta thành cuộc chiến tranh xâm lược, đi thôn tính biển, đảo của các nước khác. Đây là điều hết sức phi lý, đi ngược với đạo lý truyền thống yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta. Từ bao đời nay, chính sách quốc phòng của dân tộc ta luôn mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.
Ngược dòng lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, đặc biệt là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ càng giúp chúng ta thấy rõ giá trị và ý nghĩa to lớn trong lời huấn thị của Bác.
Như chúng ta đã biết, dưới ách thống trị hà khắc của thực dân, đế quốc, toàn dân ta phải chịu cảnh “nước mất, nhà tan”, sống kiếp ngựa trâu, trong đêm trường nô lệ với biết bao tủi nhục, cơ cực, lầm than,… Khi đó, cuộc sống của dân ta hoàn toàn bị đảo lộn; tiền đồ của dân tộc vô cùng đen tối, không có đường ra; mọi hoạt động cách mạng, đặc biệt là trong giai đoạn chưa giành được chính quyền, đều phải tiến hành một cách bí mật và đòi hỏi phải triệt để lợi dụng địa hình, địa vật nơi rừng sâu, khe suối, lấy màn đêm, sương khói “làm bạn đồng minh” để bảo toàn lực lực lượng và tạo ra yếu tố bí mật, bất ngờ,... từng bước tiêu hao, tiêu diệt địch. Chính vì lẽ đó, trong lời huấn thị của Bác khái quát rằng: “Ngày trước, ta chỉ có đêm và rừng” là hoàn toàn chính xác với bối cảnh lúc bấy giờ.
Lời huấn thị đó của Người tuy ngắn gọn, nhưng hàm chứa trong đó những thông điệp vô cùng quý báu, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, vượt mọi không gian và thời gian; không những giúp ôn lại lịch sử hào hùng của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng định rõ thành quả cách mạng đã đạt được, mà còn có giá trị chỉ đạo, định hướng đặc biệt quan trọng đối với tương lai. Theo đó, các thế hệ con dân đất Việt cả trong nước, cũng như kiều bào ta ở nước ngoài, cả hiện tại và tương lai, đặc biệt là bộ đội Hải quân, cũng như Cảnh sát biển phải luôn khắc ghi trong tiềm thức, có trách nhiệm giữ vững và phát huy hơn nữa truyền thống hào hùng của dân tộc; trân quý, giữ gìn và bảo vệ vững chắc những thành quả cách mạng, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo - phần “máu, thịt” thiêng liêng hợp thành “cơ thể” đất nước mà các thế hệ ông cha để lại cho chúng ta hôm nay là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị và phải tiến hành đồng bộ các chủ trương, giải pháp. Theo đó, cán bộ, đảng viên Cảnh sát biển Việt Nam cần nhận rõ, kiên trì, kiên quyết đấu tranh, phản bác những chiêu trò, luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch về chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Mục đích của việc đấu tranh này nhằm làm cho các tầng lớp nhân dân Việt Nam hiểu rõ chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về biển đảo và củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Đồng thời, góp phần làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ chủ quyền biển đảo của Việt Nam cũng như lập trường, quan điểm của Việt Nam trong xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè và cộng đồng quốc tế đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam./.
Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN DUNG
Chủ nhiệm Khoa Lý luận Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh/Học viện Hải quân
(*) Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQG-ST, H. 2021.
2. Quân ủy Trung ương, Nghị quyết số 49-NQ/QUTW, ngày 26/1/2015 của Quân ủy Trung ương về "Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới".
3. Vũ Thành Nam, Cảnh giác với những luận điệu xuyên tạc mới về tình hình Biển Đông, Tạp chí Khoa học an ninh, số 7/2020.
4. Trần Thị Nhẹn, Phản bác luận điệu chống phá về bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 5/2023.