16/11/2025 03:12:00 PM
(Canhsatbien.vn) -
Từ khi Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam được thành lập đến nay, hệ thống pháp luật về Cảnh sát biển Việt Nam luôn được quan tâm, được từng bước hoàn thiện, góp phần cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, vững chắc cho việc thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Đoàn công tác Bộ Quốc phòng kiểm tra thực tế việc thực hiện Đề án “Tuyên truyền, phổ biến Luật Cảnh sát biển Việt Nam giai đoạn 2019 - 2023” tại tỉnh Khánh Hòa.
Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn trên biển và thềm lục địa của Việt Nam, ngày 28/3/1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam. Ngày 21/7/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 53/1998/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam. Trên cơ sở đó, ngày 28/8/1998, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành Quyết định số 1069/QĐ- BQP thành lập Cục Cảnh sát biển Việt Nam (nay là Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam).
Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam cùng hệ thống hơn 50 văn bản pháp luật liên quan khác là cơ sở pháp lý cho Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam hoạt động, khẳng định vị trí, vai trò là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước; góp phần tăng cường lực lượng, đóng góp vào sức mạnh tổng hợp, trực tiếp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với biển, đảo Việt Nam; góp phần thể hiện hình ảnh Việt Nam là thành viên tích cực của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, có trách nhiệm giữ gìn an ninh, hòa bình quốc tế; mong muốn giải quyết các vấn đề trên biển hữu nghị, hòa bình, trên cơ sở thượng tôn pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Pháp lệnh Cảnh sát biển Việt Nam cũng bộc lộ một số bất cập, hạn chế trong quá trình triển khai như: một số quy định về thẩm quyền, hoạt động của Lực lượng Cảnh sát biển trong Pháp lệnh còn chưa cụ thể, ảnh hưởng đến quá trình triển khai, áp dụng vào thực tiễn; chưa quy định biện pháp nghiệp vụ của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; chưa quy định về sự phối hợp giữa Cảnh sát biển với các lực lượng chức năng khác làm nhiệm vụ trên biển;… Ngoài Pháp lệnh Cảnh sát biển và Nghị định số 53/1998/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam (đây đều là các văn bản dưới luật) thì hầu như chưa có các quy định của pháp luật đảm bảo cho lực lượng hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ; đồng thời chưa đảm bảo tính tương đồng với thực tiễn lập pháp của các nước trên thế giới. Do vậy, một mặt cần luật hóa các quy định của Pháp lệnh để đảm bảo tính thống nhất với các văn bản mới ban hành, một mặt cần thiết phải xây dựng những quy định mới liên quan đến tổ chức, hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam nhằm tăng cường hiệu quả quản lý, bảo vệ vùng biển và triển khai hiệu quả quy định của các luật quản lý chuyên ngành.
Trước tình hình đó, chấp hành chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã tổng kết 19 năm thực hiện Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật Cảnh sát biển Việt Nam thông qua Thường vụ Quân ủy Trung ương. Sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 34/2017/QH14 ngày 08/6/2017, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1183/QĐ-TTg ngày 11/8/2017, Bộ Quốc phòng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục về xây dựng dự án Luật Cảnh sát biển Việt Nam theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), tổ chức xin ý kiến các bộ, ngành liên quan và lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân. Trên cơ sở đó, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã tham mưu cho Bộ Quốc phòng xây dựng và hoàn thiện hồ sơ dự án Luật, gửi Bộ Tư pháp thẩm định và tiếp thu, chỉnh lý, tham mưu cho Chính phủ, trình Quốc hội thảo luận, biểu quyết thông qua.
Với tỷ lệ 96,29% đại biểu tán thành, Luật Cảnh sát biển Việt Nam đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6 và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019. Luật Cảnh sát biển Việt Nam gồm 8 Chương, 41 Điều, được xây dựng trên cơ sở thể chế đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về quản lý, bảo vệ biển, đảo Việt Nam, Chiến lược Phát triển kinh tế biển Việt Nam; tuân thủ quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công dân; đảm bảo tính thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam, sự tương thích với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đồng thời có sự kế thừa các quy định có giá trị của Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trước đó.
Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển luôn đặc biệt quan tâm, chú trọng đẩy mạnh nghiên cứu, tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành, hoàn thiện hệ thống VBQPPL về quản lý và thực thi pháp luật trên biển, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho lực lượng hoạt động hiệu quả, theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Đảng ủy, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan và các cơ quan của Bộ Quốc phòng tiến hành soạn thảo các VBQPPL, các văn kiện khác để từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý và các quy chế hoạt động của Lực lượng. Để thể chế hóa các quy định của Luật Cảnh sát biển Việt Nam, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Chính phủ ban hành 2 nghị định, 4 thông tư và một số VBQPPL khác để hướng dẫn triển khai thi hành Luật. Tiếp tục tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành 1 thông tư và 6 quy định quy định các biện pháp công tác của Cảnh sát biển Việt Nam nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Lực lượng để xây dựng hành lang pháp lý vững chắc cho Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam thực thi tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xây dựng, ban hành các VBQPPL và thường xuyên tiến hành kiểm tra, rà soát hệ thống VBQPPL, văn bản quy phạm nội bộ (VBQPNB) thuộc lĩnh vực quân sự, quốc phòng, cơ yếu (179 VBQPPL bao gồm: 2 Bộ luật, 32 Luật, 75 Nghị định của Chính phủ, 3 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 67 Thông tư; 97 VBQPNB của cơ quan Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển); hơn 50 Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính có thẩm quyền của Cảnh sát biển Việt Nam bảo đảm tính chủ động trong công tác tham mưu, ban hành và tổ chức thi hành pháp luật; là cơ sở để đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản mới thay thế hoặc bãi bỏ; tham gia ý kiến đóng góp đối với hàng nghìn văn bản liên quan đến Lực lượng Cảnh sát biển, qua đó, kịp thời phát hiện, xử lý các quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Để thực hiện nhiệm vụ thực thi pháp luật trên biển có hiệu quả, trên cơ sở quy định về nhiệm vụ Cảnh sát biển (khoản 5 Điều 8) và nội dung, trách nhiệm phối hợp trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (khoản 6 Điều 24), Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển không ngừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật về biển, đảo cho nhân dân và ngư dân thông qua các chương trình như: "Cảnh sát biển đồng hành với ngư dân"; "Em yêu biển đảo quê hương"; "Cảnh sát biển với đồng bào dân tộc, tôn giáo"… Đến nay, Lực lượng Cảnh sát biển đã tổ chức tuyên truyền cho hàng triệu lượt người dân, nhất là ngư dân 28 tỉnh, thành ven biển về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phổ biến giáo dục pháp luật về biển đảo. Cung cấp thông tin cho báo chí với hàng chục nghìn tin bài tuyên truyền về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo, thực thi pháp luật, phòng chống tội phạm, cứu hộ cứu nạn của Lực lượng Cảnh sát biển; thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên biển, tích cực hỗ trợ ngư dân và các địa phương ven biển, xây dựng thế trận phòng thủ biển đảo vững chắc.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ, Lực lượng Cảnh sát biển đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng và các lực lượng Hải quân, Bộ đội Biên phòng, Kiểm ngư… tổ chức cứu nạn được hàng trăm vụ, hàng trăm phương tiện với hàng nghìn ngư dân trên biển về đất liền trong điều kiện thời tiết phức tạp, để lại tình cảm tốt đẹp về hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ - Người chiến sĩ Cảnh sát biển" trong lòng nhân dân. Lực lượng đã tổ chức triển khai hàng nghìn lượt tàu, xuồng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm tra, kiểm soát; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và bảo vệ các hoạt động kinh tế biển; tuyên truyền, xua đuổi hàng nghìn lượt tàu thuyền nước ngoài vi phạm ra khỏi vùng biển Việt Nam; ghi số hiệu, lập biên bản, phóng thích hơn 4.000 lượt tàu vi phạm. Các đơn vị đã chủ động đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển, phát hiện, bắt giữ, xử phạt vi phạm hành chính và xử lý tang vật trị giá hàng nghìn tỷ đồng, sung vào ngân sách Nhà nước; thiết lập mối quan hệ song phương, đa phương với 7 tổ chức và 15 lực lượng thực thi pháp luật trên biển thuộc các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Sự hợp tác với các nước bạn đã bảo đảm cho Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm có tổ chức, có yếu tố nước ngoài; đồng thời nâng cao vai trò, vị thế và thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thời gian tới, tình hình khu vực Biển Đông dự báo vẫn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định, khó lường; tội phạm, vi phạm, nhất là tội phạm, vi phạm phi truyền thống, có yếu tố nước ngoài gia tăng, diễn biến phức tạp, với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, tổ chức chặt chẽ, phương tiện, trang bị hiện đại,… đòi hỏi công tác thực thi pháp luật trên biển của các lực lượng nói chung, Lực lượng Cảnh sát biển nói riêng cần được đẩy mạnh, tăng cường hơn nữa, với nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, trong đó có công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống VBQPPL.
Thực tiễn vừa qua cho thấy, việc ban hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam đã tạo hành lang, cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của Lực lượng Cảnh sát biển. Song hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng của Lực lượng, và sự sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật khác liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật trên biển như: Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Phòng thủ dân sự,…. cần đẩy mạnh, chú trọng công tác tham mưu xây dựng, ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của Lực lượng Cảnh sát biển là yêu cầu cấp thiết, vì đây là một trong những nội dung quan trọng của công tác pháp chế nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc áp dụng và thực thi pháp luật, kịp thời phát hiện và xử lý những văn bản còn quy định chồng chéo, trùng lặp, mâu thuẫn hoặc đã bị bãi bỏ, hết hiệu lực; giúp công tác xây dựng, áp dụng và thi hành pháp luật có hiệu quả hơn; tăng tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nắm chắc, quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương, quan điểm tại các văn kiện, nghị quyết của Đảng về quân sự, quốc phòng, cơ yếu và quản lý, bảo vệ, phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam; chấp hành nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh, nắm chắc mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng, cơ yếu của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; chủ động tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các VBQPPL về quân sự, quốc phòng, cơ yếu, trong đó có Luật Cảnh sát biển Việt Nam và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật trên phạm vi cả nước.
Hai là, chủ động thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình trên biển để đề xuất chủ trương, giải pháp, phương án bảo vệ an ninh quốc gia, thực thi pháp luật trên biển; nghiên cứu, phân tích, dự báo, tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành chính sách, pháp luật về bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, an ninh quốc gia trong vùng biển Việt Nam, bảo đảm trật tự, an toàn và đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển.
Ba là, thường xuyên nghiên cứu, rà soát hệ thống văn bản, nhất là các văn bản về lĩnh vực quân sự, quốc phòng liên quan đến Cảnh sát biển Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan đến biển; bảo đảm tính chủ động trong công tác tham mưu, ban hành và tổ chức thi hành pháp luật; tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản mới thay thế hoặc bãi bỏ, bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật Việt Nam, phù hợp luật pháp quốc tế. Quá trình thực hiện công tác rà soát VBQPPL, cần tuân thủ nghiêm các quy định của Luật Ban hành VBQPPL năm 2015; thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn các chế độ báo cáo, thống kê về kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; phân công cán bộ thường xuyên bám sát, cập nhật VBQPPL vào Cơ sở Dữ liệu quốc gia về pháp luật.
Bốn là, làm tốt công tác phối hợp, hiệp đồng với các cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng hoạt động trên biển như Hải quân, Bộ đội Biên phòng, Kiểm ngư, Công an, Hải quan, các quân khu ven biển,… phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế với lực lượng thực thi pháp luật trên biển của các nước, nhất là các nước có vùng biển giáp ranh với Việt Nam; phát huy hiệu quả các đường dây nóng mà Cảnh sát biển Việt Nam đã ký kết với lực lượng thực thi pháp luật trên biển các nước; tranh thủ sự giúp đỡ, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và các nguồn lực quốc tế khác để tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, xây dựng và ban hành các VBQPPL mới phù hợp với luật pháp quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và tạo hành lang pháp lý cho lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên thực địa có yếu tố nước ngoài.
Năm là, tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên thực hiện công tác nghiệp vụ pháp luật, đặc biệt là công tác pháp chế nhằm đáp ứng yêu cầu trong thời gian tới. Chú trọng công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng tại chỗ, kết hợp chủ động phát hiện, tạo nguồn, cử cán bộ đi đào tạo tại các trường trong và ngoài Quân đội, tiếp tục thực hiện tốt kế hoạch đào tạo nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả công tác tham mưu, đề xuất, xây dựng dự thảo VBQPPL theo chương trình xây dựng VBQPPL của Bộ Quốc phòng. Bên cạnh đó, rà soát, bổ sung cán bộ cho những vị trí còn thiếu, tạo điều kiện cho cán bộ pháp chế được sử dụng lâu dài kết hợp chăm lo chính sách cán bộ, vận dụng chính sách phù hợp nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.
Có thể thấy, từ sự ra đời của Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đến việc ban hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành là nền tảng pháp lý vững chắc để xây dựng Cảnh sát biển Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và có tính chuyên nghiệp cao. Trong những năm tiếp theo, bên cạnh những thuận lợi là vô vàn khó khăn, tình hình an ninh, chủ quyền trên Biển Đông dự báo diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường; do đó, cần tập trung hơn nữa vào công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống VBQPPL liên quan đến Lực lượng Cảnh sát biển để kịp thời cập nhật, bổ sung nhiều quy định mới và thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về quản lý, bảo vệ biển đảo, tạo điều kiện thuận lợi để Cảnh sát biển Việt Nam hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo vệ biển, đảo và phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam giai đoạn hiện nay./.
Thiếu tướng VŨ TRUNG KIÊN
Phó Tư lệnh Pháp luật Cảnh sát biển Việt Nam