Phát huy vai trò của các cơ chế quốc tế đa phương trong giải quyết vấn đề Biển Đông

22/11/2024 09:31:00 AM

(Canhsatbien.vn) - 

Biển Đông là một trong những vùng biển lớn nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương với diện tích trên 3,5 triệu km2, tiếp giáp nhiều nước trong khu vực như: Trung Quốc, Brunei, Philippines, Việt Nam, Malaysia…, là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng, có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt vô cùng lớn, nơi tập trung nhiều tuyến giao thông hàng hải quốc tế quan trọng nhất thế giới, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương…

Biển Đông cũng là khu vực có tranh chấp chủ quyền phức tạp nhất thế giới hiện nay. Sự phức tạp đó đang ngày một gia tăng và tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, tác động trực tiếp đến chủ quyền, lợi ích của nhiều nước cũng như môi trường hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một giải pháp nào thực sự khả thi để có thể giải quyết triệt để vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, vì vậy, cần phải phát huy hơn nữa vai trò của các cơ chế quốc tế đa phương trong việc giải quyết vấn đề này.

Thứ nhất: Phát huy vai trò của các bên có tranh chấp chủ quyền

Để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, các bên có tranh chấp phải có thái độ tích cực, thực sự kiềm chế, không tiến hành các hoạt động làm gia tăng căng thẳng tại khu vực tranh chấp hoặc bị coi là tranh chấp, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS năm 1982, thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ DOC, cùng nhau xây dựng COC1. Vì vậy cần phải phát huy vai trò tích cực, chủ động của các bên có tranh chấp chủ quyền.

Trước hết là Trung Quốc - nước có yêu sách chủ quyền tham vọng nhất, chồng lấn chủ quyền với tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Tham vọng và biện pháp thực thi tham vọng của Trung Quốc là “ngòi nổ” khiến tranh chấp Biển Đông leo thang căng thẳng. Các nhà hoạch định chiến lược của Trung Quốc đã xác định Biển Đông có “lợi ích sống còn” là “lối thoát chiến lược”, nơi mở rộng “không gian sinh tồn” và hiện thực hóa tham vọng cường quốc hải dương, cường quốc thế giới của Trung Quốc. Vậy, nếu xung đột trên Biển Đông nổ ra, cánh cửa đi xuống phía Nam của Trung Quốc bị khép lại, liệu Trung Quốc có thể thực hiện được tham vọng cường quốc hải dương, cường quốc thế giới của họ? Do đó, để thực hiện tham vọng này, Trung Quốc chính là nước phải thực sự kiềm chế các hành động của mình. Sự kiềm chế của Trung Quốc trên Biển Đông sẽ là chìa khóa để Trung Quốc hướng ra biển lớn.

Đối với Philippines, Brunei, Việt Nam, Malaysia và Đài Loan cũng phải kiềm chế; kiềm chế để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của chính quốc gia mình chứ không phải vì bất kỳ một quốc gia nào khác. Vì môi trường hòa bình, ổn định trên Biển Đông là nhân tố hết sức quan trọng thúc đẩy đất nước phát triển. Kiềm chế, không tiến hành các hoạt động làm gia tăng căng thẳng trên Biển Đông không có nghĩa là đánh đổi, là đầu hàng hay từ bỏ chủ quyền, lợi ích quốc gia của mình. Do đó, muốn giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, các bên có tranh chấp chủ quyền phải thực sự chủ động, tích cực tìm kiếm các giải pháp giải quyết hợp lý nhất thông qua nhiều hình thức, biện pháp, cả song phương lẫn đa phương.

Thứ hai: Xây dựng lòng tin là cái gốc để giải quyết tranh chấp giữa các bên

Vấn đề xây dựng lòng tin đã được khẳng định trong nhiều hội nghị quan trọng bàn về các giải pháp giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, được các nước ASEAN và Trung Quốc khẳng định, thể hiện rõ trong DOC. Tuy nhiên, lòng tin giữa các bên có tranh chấp chủ quyền Biển Đông vẫn bị giảm sút nghiêm trọng. Các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc thực sự lo ngại, thiếu lòng tin vào cam kết của Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc cũng có nhiều “nghi kỵ” đối với các nước có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, nhất là các nước có quan hệ ngày càng sâu đậm với Mỹ. Chính vì vậy, việc xây dựng lòng tin giữa các nước, các bên liên quan đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông là đặc biệt quan trọng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình ổn định ở khu vực.2

Việc tiến hành xây dựng lòng tin phải được dựa trên tổng thể nhiều biện pháp, song sự thiện chí của các bên là quan trọng nhất. Để xây dựng lòng tin, các bên liên quan cần phải: (1) Giữ nguyên hiện trạng, không gia tăng các hoạt động gây phức tạp tại khu vực tranh chấp hoặc bị coi là tranh chấp. Đây là biện pháp, đồng thời là nguyên tắc đầu tiên trong xây dựng lòng tin. Nếu các bên có tranh chấp chủ quyền không có thiện chí thực hiện vấn đề này, thì sẽ không tồn tại lòng tin. Do vậy, trong môi trường đầy biến động hiện nay, việc giữ nguyên trạng và kiềm chế, không thực hiện các hành vi làm xấu thêm tình hình cần được hết sức coi trọng nhằm kiểm soát, quản lý xung đột ở Biển Đông một cách hữu hiệu; (2)Thực hiện tự giác, có trách nhiệm đối với các cam kết quốc tế đã ký kết. Trên thực tế, các nước có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông đều tham gia vào một hoặc nhiều cam kết quốc tế đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông trên cả phương diện song phương và đa phương; Ít nhất là UNCLOS năm 1982 và DOC. Tuy nhiên, việc thực hiện này cũng đòi hỏi sự thiện chí, tự giác, có trách nhiệm của tất cả các bên liên quan. Nếu thiếu thiện chí, các bên liên quan hoàn toàn có thể “lách luật”, ngụy biện cho các hoạt động gia tăng căng thẳng trên Biển Đông, thậm chí có thể đổ lỗi cho các nước khác. Sự kiện Scarborough, vụ giàn khoan HD-981 là những ví dụ điển hình. (3) Công khai các hoạt động và mục đích tiến hành các hoạt động ở khu vực tranh chấp hoặc bị coi là tranh chấp. Chủ quyền là vấn đề đặc biệt quan trọng, là tài sản vô cùng quý giá của mọi quốc gia và vùng lãnh thổ. Nó không thể được đánh đổi một cách tùy tiện. Vì vậy, các bên liên quan đều theo dõi sát sao mọi hoạt động và mục đích của các nước khác tại khu vực có tranh chấp hoặc bị coi là tranh chấp. Khi tiến hành các hoạt động tại khu vực này, giải pháp tốt nhất là nước tiến hành cần phải công khai hóa, minh bạch hóa các hoạt động và mục đích tiến hành cho các bên còn lại3. Tuy nhiên, giải pháp này cũng gặp nhiều khó khăn vì tham vọng của mỗi nước và sự nghi kỵ vẫn còn tồn tại; (4) Tăng cường, thẳng thắn trao đổi, thiện chí tìm kiếm các giải pháp tháo gỡ. Trong thời gian qua, vấn đề này đã được các bên có tranh chấp tích cực tiến hành, tuy nhiên vẫn còn sự nghi kỵ, chưa tìm ra được giải pháp phù hợp, khiến tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. Vấn đề đặt ra là trong các cuộc trao đổi đó, các bên đã thực sự thiện chí chưa? Đã quan tâm, tính toán đến khó khăn của bên còn lại chưa? đã tính toán đến những nhượng bộ có thể của mình, những nhượng bộ có thể của các bên còn lại? Nghiên cứu, trao đổi, chia sẻ các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, biết đặt lợi ích quốc gia của mình trong lợi ích của khu vực? Nếu tất cả các bên có tranh chấp chỉ tính toán đến lợi ích của mình thì khó có thể xây dựng được lòng tin, khó có thể tìm ra được các biện pháp giải quyết tranh chấp một cách hòa bình; (5) Thành lập một nhóm làm việc chung giữa các bên có tranh chấp để trao đổi, nghiên cứu, xây dựng các biện pháp giải quyết tranh chấp. Việc thành lập nhóm làm việc chung có thể căn cứ vào từng khu vực tranh chấp cụ thể. Đối với khu vực quần đảo Hoàng Sa, là vấn đề song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hai nước cần thành lập một nhóm làm việc chung về khu vực này. Đối với khu vực quần đảo Trường Sa, các bên liên quan cũng cần thiết phải thành lập nhóm làm việc chung. Các nhóm làm việc này có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất giải pháp phù hợp để củng cố lòng tin, quản lý xung đột, hướng tới giải quyết dứt điểm tranh chấp giữa các bên4.

Thứ ba: Phát huy vai trò của ASEAN

Với mục tiêu tạo dựng môi trường hòa bình ở Đông Nam Á, giúp các nước thành viên giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, hướng tới phát triển thịnh vượng, vì vậy ASEAN là tổ chức duy nhất tham gia và có nhiều đóng góp nhằm hạn chế xung đột xảy ra trên Biển Đông. Một trong những phương cách tốt nhất để giảm bớt căng thẳng, quản lý xung đột trong giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông là ASEAN cần phải thúc đẩy hơn nữa vai trò to lớn của mình, theo đó: (1) Các nước thành viên ASEAN cần chủ động tham gia giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, coi đây là trách nhiệm và lợi ích chiến lược của ASEAN và là phương cách tốt nhất để ASEAN phát huy vai trò đối với khu vực; (2) Tăng cường hội nhập sâu rộng, gắn kết chặt chẽ lợi ích của các thành viên với lợi ích chung của khối trong tham gia giải quyết các vấn đề khu vực trong đó có vấn đề tranh chấp trên Biển Đông; (3) Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ký kết COC mang tính thực chất hơn, rõ ràng hơn, phù hợp với luật pháp quốc tế, tối đa hóa lợi ích của các nước, có tính ràng buộc pháp lý cao; (4) Thông qua một văn bản có tính ràng buộc, yêu cầu các nước Chủ tịch luân phiên ASEAN hàng năm phải đưa vấn đề tranh chấp trên Biển Đông vào chương trình nghị sự chính thức của khối; (5) Tăng cường thảo luận về vấn đề Biển Đông, tổ chức nhiều hơn nữa các hội thảo quốc tế để tạo tiếng nói mạnh mẽ của ASEAN về vấn đề này. Qua đó nâng cao hiểu biết chung, tạo sự kết nối về thể chế giữa các nước, trao đổi kinh nghiệm và hiểu biết làm cho sự lựa chọn chính sách của các quốc gia minh bạch và có thể dự đoán được, đồng thời kiến nghị các chính sách, sáng kiến lên các hội nghị chính thức của ASEAN để thảo luận.

Thứ tư: Hiện thực hóa DOC

Tháng 11/2002, ASEAN và Trung Quốc đã tiến hành ký kết DOC thay vì COC như ý định ban đầu, đây được coi là một bước tiến quan trọng, là một trong những đóng góp hết sức to lớn của ASEAN thể hiện cam kết tập thể của khối nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm giải pháp hòa bình và lâu dài cho tranh chấp trên Biển Đông, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các nước. Tuy nhiên, DOC còn nhiều điểm chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng, vì vậy chưa thể tạo ra một cơ chế giải quyết triệt để, có thể ngăn ngừa và kiềm chế xung đột trên Biển Đông. Do đó, để triển khai thực hiện DOC, các bên tranh chấp cần thực hiện tự giác đầy đủ các nội dung được ghi trong DOC: Giải quyết các bất đồng bằng biện pháp hòa bình, thông qua thương lượng và đàm phán giữa các bên trên cơ sở các nguyên tắc đã được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật quốc tế, bao gồm UNCLOS năm 1982, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan...; Tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các bên có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; Tích cực triển khai các hoạt động hợp tác, cụ thể hóa nội dung đã được ghi trong DOC như hợp tác bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an toàn và an ninh hàng hải, tìm kiếm cứu nạn, chống tội phạm xuyên quốc gia; tiến hành các hoạt động chung như thăm dò, khai thác dầu khí, khí đốt, băng cháy; hợp tác đánh bắt, khai thác thủy sản, phát triển du lịch biển; tiến hành tuần tra chung, huấn luyện, diễn tập quân sự chung... Để các hoạt động này thực sự có hiệu quả, khi tổ chức và tiến hành cần có sự tham gia của tất cả các bên có tranh chấp; Tiếp tục triển khai, xây dựng ký kết các văn bản, hướng dẫn thực hiện COC mang tính thiết thực và cụ thể hơn, mặc dù bản Quy tắc Hướng dẫn triển khai DOC mà Trung Quốc và ASEAN thông qua tháng 7/2011 là bước tiến quan trọng trong tìm kiếm giải pháp hòa bình cho tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.

Thứ năm: Thúc đẩy xây dựng COC

ASEAN và Trung Quốc đã đạt được sự đồng thuận về sự cần thiết phải xây dựng và ký kết COC. Tuy nhiên để COC ra đời sớm và có đóng góp tích cực đối với việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông đòi hỏi các bên tham gia cần: Giữ vững nguyên tắc xây dựng COC. COC được xây dựng phải có tính ràng buộc pháp lý cao, cụ thể, đầy đủ và có đóng góp thực tế đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; Điều chỉnh yêu sách chủ quyền phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế. Để có được COC, các nước có chủ quyền và yêu sách chủ quyền trên Biển Đông cần phải thực sự xem xét, cân nhắc các yêu sách chủ quyền của mình sao cho phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế. COC được xây dựng phải dựa trên các thông lệ đó và phải phù hợp với luật pháp quốc tế; Thành lập nhóm xây dựng COC.

Thành viên của nhóm là đại diện của các bên có tranh chấp chủ quyền bao gồm Trung Quốc và Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và một thành viên của nước Chủ tịch ASEAN. Sau khi đạt được sự thống nhất trong nhóm về dự thảo COC sẽ thông qua ASEAN và tiến hành đàm phán với Trung Quốc để đi đến ký kết, thi hành; Tích cực đẩy mạnh hơn nữa việc soạn thảo và thống nhất nội hàm của COC giữa ASEAN và Trung Quốc để sớm đi đến ký kết. Việc xây dựng COC để thực sự có đóng góp lớn đối với giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông là một vấn đề khó khăn. Trong những năm qua, nhiều nước thành viên ASEAN (Indonesia, Thái Lan, Singapore...) đã nghiên cứu, xây dựng và đề xuất các bản thảo COC nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và nguyện vọng chung của các bên. Để có được COC đúng nghĩa, đòi hỏi các bên liên quan cần nỗ lực hơn nữa; Tăng cường trao đổi, đàm phán với Trung Quốc để đi đến thống nhất và ký kết. Việc xây dựng và ký kết COC không chỉ là mong muốn của ASEAN mà cả Trung Quốc. Trung Quốc sẽ khó mà thực hiện được “giấc mơ Trung Hoa” và tham vọng cường quốc thế giới của họ nếu tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục căng thẳng hoặc xảy ra xung đột. Một biện pháp phi hòa bình (quân sự) sẽ không thể giải quyết dứt điểm tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, để sớm có COC mang tính đóng góp cao, góp phần giảm bớt căng thẳng, quản lý xung đột, tiến tới giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, các nước ASEAN và Trung Quốc cần phải tích cực xây dựng với thành ý, trách nhiệm hơn nữa trong trao đổi, đàm phán.

Thứ sáu: Thông qua cơ chế tài phán quốc tế

Giải quyết tranh chấp chủ quyền thông qua cơ chế tài phán quốc tế là biện pháp hòa bình, tích cực đã có tiền lệ trong luật pháp quốc tế như: Tòa án Công lý Quốc tế (IJC) đã xử lý vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với đảo Sipadan và rặng đá ngầm Ligitan giữa Indonesia và Malaysia vào năm 2002 với tuyên bố: Malaysia có chủ quyền đối với hai đảo trên; năm 2008, IJC cũng đã ra phán quyết về tranh chấp chủ quyền đối với 03 đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore với kết luận: đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh thuộc chủ quyền của Singapore nhưng chủ quyền Middle Rocks thuộc Malaysia và đảo South Ledge thuộc về nước có lãnh hải bao trùm lên đảo này5

Như vậy, việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông thông qua cơ chế tài phán quốc tế là một biện pháp hòa bình, tích cực khi các biện pháp hòa bình khác không đạt được kết quả như mong muốn, hoặc tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp. Mặc dù việc dựa vào cơ chế tài phán quốc tế không phải là một giải pháp triệt để cho tất cả các vấn đề phức tạp đang diễn ra nhưng có thể giải quyết một số vấn đề thành phần, tạo điều kiện thuận lợi cho các vấn đề khác. Nếu tranh chấp chủ quyền tiếp tục diễn biến phức tạp, căng thẳng, việc lựa chọn giải pháp thông qua cơ chế tài phán quốc tế sẽ là một biện pháp tốt nhất nhằm ngăn ngừa xung đột xảy ra.

Thứ bảy: Đối sách và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, Biển Đông có vai trò vô cùng quan trọng, cả về kinh tế, chính trị - xã hội lẫn quốc phòng an ninh, là cửa ngõ chính để kết nối Việt Nam với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông là một vấn đề hết sức phức tạp và không thể giải quyết một sớm một chiều. Vì vậy, để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo quốc gia, về chủ trương, Việt Nam cần: Nhất quán quan điểm: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, kiên trì giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS năm 1982 và DOC. Đồng thời, kiên định về chiến lược, linh hoạt về sách lược, kết hợp hài hòa sức mạnh nội lực với sức mạnh ngoại lực trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia. Trong đó sức mạnh nội lực là then chốt, sức mạnh ngoại lực là quan trọng. Tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, đoàn kết thống nhất, nâng cao năng lực phòng thủ, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia. Tăng cường hiểu biết, phát triển hài hòa quan hệ hợp tác với các nước lớn, thắt chặt quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng, mở rộng quan hệ đa đối tác với tất cả các nước trên thế giới, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, phát huy tối đa vai trò của các tổ chức quốc tế, khu vực. Tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, chủ động đẩy mạnh hoạt động đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo; Chủ động giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam với các nước bằng tất cả các biện pháp hòa bình cả song phương và đa phương. Kiên quyết, khôn khéo, tích cực, thiện chí, kiên trì đàm phán giải quyết các vấn đề từ dễ đến khó, nhất là với Trung Quốc.

Để thực hiện tốt chủ trương trên, Việt Nam cần thực hiện tốt các giải pháp cụ thể sau: (1) Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù hiện nay, Trung Quốc đang chiếm đóng, nhưng đó là sự chiếm đóng bất hợp pháp. Do vậy, Việt Nam cần phải tiếp tục thực hiện nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà nước, kiên chì, kiên quyết đấu tranh với Trung Quốc bằng tất cả các biện pháp hòa bình, sẵn sàng đối phó với các biện pháp phi hòa bình mà Trung Quốc có thể đơn phương áp đặt; (2) Tích cực, chủ động giải quyết tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Trường Sa. Đối với quần đảo Trường Sa là vấn đề đa phương giữa 5 nước một bên (Trung Quốc và Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei). Việc giải quyết tranh chấp chủ quyền tại khu vực này liên quan đến chủ quyền, lợi ích của nhiều nước. Do đó trong quá trình giải quyết, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, tính toán đến chủ quyền và lợi ích của Việt Nam nhưng cũng cần phải tính toán đến chủ quyền của các bên có tranh chấp; (3) Thực hiện đúng nguyên tắc “3 không” của Bộ Quốc phòng Việt Nam là: không tham gia các liên minh quân sự; không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Trong thời gian tới, cạnh tranh Mỹ - Trung sẽ trở lên hết sức gay gắt trên tất cả các lĩnh vực. Biển Đông có thể sẽ trở thành tâm điểm của cuộc cạnh tranh quyết liệt đó. Cuộc cạnh tranh này sẽ mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn nhưng cũng không ít thách thức nặng nề. Tận dụng tốt cơ hội, Việt Nam có thể giải quyết tốt các vấn đề tranh chấp chủ quyền với nhiều nước, trong đó có Trung Quốc mà nhiều năm qua chưa thực hiện được. Nếu không nắm bắt được cơ hội, xử lý không tốt các vấn đề về chủ quyền, Việt Nam có thể phải hứng chịu nhiều hậu quả nặng nề từ cuộc cạnh tranh gay gắt trên. Kiên trì, thực hiện đúng nguyên tắc “3 không” của Bộ Quốc phòng Việt Nam là chìa khóa để chúng ta vượt qua thách thức trên; (4) Chấp hành đúng các cam kết quốc tế đã ký kết, không tiến hành các hoạt động gây phức tạp trong tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, sẵn sàng đối phó với các tình huống có thể xảy ra cả trên biển lẫn trên bộ liên quan đến vấn đề tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; (5) Hạn chế tối đa việc sử dụng lực lượng quân sự trong các va chạm với lực lượng dân sự, bán dân sự của nước ngoài tại khu vực tranh chấp hoặc bị coi là có tranh chấp. Không sử dụng bạo lực khi chưa có lệnh của các cơ quan có thẩm quyền; (6) Để bảo vệ và giữ vững chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam cần nghiên cứu đưa ra các tuyên bố cụ thể rõ ràng hơn. Việc tuyên bố chủ quyền hiện nay của Việt Nam còn nhiều bất cập. Trong số các nước có tuyên bố yêu sách chủ quyền trên Biển Đông hiện nay, chỉ có Việt Nam và Trung Quốc là có tuyên bố, đòi hỏi chủ quyền toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Rõ ràng, việc đòi hỏi như vậy sẽ khó được cộng đồng quốc tế chấp nhận, gây khó khăn cho Việt Nam trong các hoạt động đấu tranh, ảnh hưởng đến hình ảnh của quốc gia trên trường quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam cần nghiên cứu và đưa ra các tuyên bố chủ quyền cụ thể đối với các đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, thay vì tuyên bố chung chung như hiện nay. Việc tuyên bố cụ thể này sẽ tạo thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, nhất là trên phương diện đấu tranh pháp lý với nước ngoài và nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. (7) Chuẩn bị kỹ, sẵn sàng đấu tranh pháp lý với Trung Quốc và các nước khi vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, và khi các biện pháp đấu tranh hòa bình khác không đạt kết quả. Biện pháp quân sự không phải là sự lựa chọn tối ưu, nhưng không thể không phòng ngừa để bảo đảm tốt nhất cho tình huống xấu nhất có thể xảy ra.

Tóm lại:

Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông là một trong những tranh chấp chủ quyền phức tạp nhất hiện nay trên thế giới. Giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông là vấn đề vô cùng khó khăn, liên quan đến chủ quyền, lợi ích của nhiều nước trong và ngoài khu vực. Vấn đề này đã được nhiều nước trong và ngoài khu vực hết sức quan tâm, tìm kiếm giải pháp tháo gỡ, tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một giải pháp khả thi tuyệt đối nào có thể giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông một cách triệt để, kể cả các giải pháp quân sự. Những giải pháp nêu trên không phải là những giải pháp mới nhưng là những giải pháp tích cực góp phần giảm bớt căng thẳng, quản lý xung đột, tạo dựng môi trường hòa bình ổn định ở khu vực, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ quốc gia./.

PGS, TS.  Nguyễn Thị Quế - Viện Quan hệ Quốc tế/ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

  1. Nguyễn Tấn Dũng (2014), “Tiếp tục đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định ở Đông Nam Á và trên toàn thế giới”, Tạp chí Cộng sản, số 865.
  2. Sam Bateman (2005), Các biện pháp xây dựng lòng tin và an ninh ơ ̉ khu vực châu Á-Thái Bình Dương và luật biển, Vị trí chiến lược vấn đề trên biển và luật biển ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Nxb Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, tr 187.
  3. Góp phần khẳng định chủ quyền hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông, http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.as px?co_id= 30257&cn_id=541547
  4. Biện pháp xây dựng lòng tin thông qua trọng tài và tòa án quốc tế, http://www.biendong.net/binh-luan/1744-bin-phap-xay-dng long-tin-ti-bin-ong-thong-qua-trng-tai-va-toa-an-quc-t.html
  5. Đặng Đình Quý (2011), Biển Đông hướng tới một khu vực hòa bình, an ninh và hợp tác, Nxb Thế Giới, tr 312.
Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục gửi về banbientapcsb@gmail.com