Vai trò của lực lượng thực thi pháp luật trong bảo vệ biển, đảo và hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với lực lượng Cảnh sát biển

20/11/2024 08:26:00 AM

(Canhsatbien.vn) - 

Biển Việt Nam có vị trí chiến lược và tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Điều này đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ phải tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với biển, đảo theo cách tiếp cận quản lý thống nhất trên cơ sở thực thi phương thức quản lý nhà nước tổng hợp. Trong đó, nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và tăng cường lực lượng thực thi pháp luật theo cách tiếp cận mới cần được xem là vấn đề ưu tiên cao nhất.

Biển Đông và yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước về biển của Việt Nam

Biển Đông (người Trung Quốc gọi là Nam Hải, người Philippines gọi là Biển Tây Philippines, tên tiếng Anh là South China Sea) là một trong 6 biển lớn của thế giới. Biển Đông chiếm vị trí địa kinh tế và địa chính trị trọng yếu trên bình đồ thế giới và khu vực Đông Á; là chỗ dựa sinh kế trực tiếp của khoảng 300 triệu cư dân thuộc 9 quốc gia và 1 vùng lãnh thổ Đài Loan; là tuyến hàng hải nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương - một khu vực phát triển kinh tế năng động ở thế kỷ 21. Nhiều quốc gia trong khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào quyền tự do hàng hải qua khu vực biển này: 70% sản phẩm dầu mỏ nhập khẩu và 45% khối lượng hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản, khoảng 60% khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Trung Quốc,... và mặc dù nằm rất xa Biển Đông nhưng Mỹ vẫn coi đây là con đường thông thương chiến lược của mình. Chính vì thế, từ lâu khu vực biển này đã chứa đựng nhiều lợi ích và tham vọng phát triển đan xen, được đánh giá là “không gian sinh tồn” không chỉ của các quốc gia trong khu vực mà còn cả của các quốc gia ngoài khu vực, trong đó có Mỹ và đồng minh. Trong số 10 quốc gia và vùng lãnh thổ quanh Biển Đông, 9 quốc gia và vùng lãnh thổ có yêu sách về chủ quyền biển đảo, tạo nên các tranh chấp đa phương và song phương, chứa đựng các mâu thuẫn cả về đối ngoại, kinh tế, quốc phòng và an ninh với các dạng tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán (tranh chấp về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa); tranh chấp về tài nguyên biển; tranh chấp đảo và bãi đá ngầm; và tranh chấp vùng trời trên biển (vùng thông báo bay-FIR). Các cuộc tranh chấp trên Biển Đông kéo dài, biểu hiện ngày càng phức tạp, chứa đựng yếu tố tiềm ẩn khó lường và nếu thiếu giải pháp giải quyết “thiện ý” sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực cũng như thế giới. Biển Việt Nam là một bộ phận của Biển Đông, rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền, chiếm khoảng 29% diện tích toàn Biển Đông, bao gồm các vùng biển nằm trong phạm vi 200 hải lý, thềm lục địa và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Bờ biển Việt Nam dài trên 3.260km,có lợi thế “mặt tiền” hướng biển với chỉ số biển khoảng 0,01 (gấp 6 lần trung bình của thế giới).Trong vùng biển có hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, phân bố thành các tuyến, các cụm đảo ven bờ và hai quần đảo ngoài khơi Hoàng Sa, Trường Sa. Nói về ý nghĩa kinh tế, có thể ví mỗi hòn đảo như một “viên ngọc xanh” trên nền biển bạc; về ý nghĩa chủ quyền, mỗi hòn đảo ví như một “cột mốc chủ quyền tự nhiên” quốc gia và về mặt quốc phòng an ninh, có thể ví mỗi hòn đảo như một “chiến hạm” không thể đánh chìm. Các cụm, tuyến đảo cùng nhiều khu vực địa lý quan trọng ven biển đã tạo cho vùng biển nước ta vị trí trọng yếu về địa kinh tế, địa chính trị và địa văn hóa. Dải ven biển nước ta có mặt 114 cửa sông, 12 đầm phá (lagoon) điển hình, khoảng 50 vũng ven bờ (coastal bay), khoảng 20 kiểu loại hệ sinh thái điển hình và hơn 100 điểm khoáng sản đã được phát hiện,…Điều này đã tạo nên nét đặc trưng về cảnh quan thiên nhiên và nguồn tài nguyên biển phong phú, đa dạng với trữ lượng/quy mô thuộc loại khá, cho phép phát triển nhiều lĩnh vực kinh tế biển quan trọng như: cảng biển, giao thông vận tải biển, thủy sản, dầu khí, khai khoáng, du lịch, các khu kinh tế ven biển/trên đảo và nhiều lĩnh vực dịch vụ đi kèm. Lịch sử đã chứng minh biển, vùng ven biển và hải đảo gắn bó mật thiết, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường cho mọi miền đất nước. Các thế hệ người Việt đã gắn bó với biển và có sinh kế phụ thuộc vào biển, đặc biệt đối với người dân sống ở 145 huyện ven biển, trong đó có 14 huyện đảo (chiếm 17% tổng diện tích và khoảng trên 28% dân số cả nước). Trong bối cảnh thế giới tiến ra biển ở thế kỷ 21 với các chiến lược biển quốc gia đầy tham vọng và trong xu thế thế giới đang “lấy đại dương nuôi đất liền” thì biển càng trở nên trọng yếu đối với phát triển kinh tế quốc dân và trong việc lựa chọn con đường đi tới của dân tộc ta. Điều đó được thể hiện rõ trong các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ. Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, ý thức của dân tộc Việt Nam về biển đã được hội tụ trong câu nói bất hủ của Bác Hồ: “Biển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ” khi Người về thăm làng cá Tuần Châu (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng) vào dịp cuối tháng 3 đầu tháng 4/1959. Tiếp sau Hiến pháp năm 1992 sửa đổi (Điều 1) khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền của nước ta trên biển, Bộ Chính trị (ngày 6/5/1993) đã ra Nghị quyết 03-NQ/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển. Nghị quyết này đã chỉ rõ: “Vị trí và đặc điểm địa lý của nước ta cùng với bối cảnh phức tạp trong vùng vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển. Phấn đấu trở thành một nước mạnh về kinh tế biển. Ý chí chính trị đó tiếp tục được cụ thể hóa trong Nghị quyết của các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX và X. Tại Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 4 (Khóa X) năm 2007, Đảng ta đã thông qua Nghị quyết 09/2007/NQ TW về ban hành Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020. Theo đó đã xác định mục tiêu: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển…”. Chiến lược cũng đã đề ra hàng loạt phương hướng, nhiệm vụ cơ bản và giải pháp chủ yếu để tiến ra biển xa và để hội nhập với thế giới bên ngoài. Có thể thấy, “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” thể hiện rõ tư tưởng chỉ đạo và ý chí chính trị của Đảng, Nhà nước ta đối với các vấn đề cực kỳ hệ trọng của đất nước - biển và hải đảo. Một vấn đề vừa rộng lớn, vừa phức tạp, vừa đòi hỏi tính bao quát toàn diện và một tầm nhìn dài hạn cũng như những giải pháp mang tính “đột phá” đối với các vấn đề kinh tế, xã hội, quản lý, quốc phòng - an ninh, khoa học - công nghệ, phát triển bền vững... về biển và hải đảo của đất nước trong thời gian tới. Sự phát triển như vậy phải dựa trên thế mạnh, tính đặc thù và việc phát huy lợi thế của biển nước ta trong bối cảnh cụ thể của khu vực Biển Đông, cũng như việc bảo đảm hiệu quả thực thi pháp luật trên các vùng biển chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Cùng với việc thừa nhận luận điểm của thời đại - “Thế kỷ 21 là thế kỷ của đại dương”, quan điểm thống nhất quản lý nhà nước trên cơ sở áp dụng phương thức quản lý tổng hợp đối với biển, đảo đã trở thành một chủ trương mới, nhất quán trong lãnh đạo, điều hành của Đảng và Chính phủ đối với công tác quản lý nhà nước về biển, đảo ở nước ta vừa qua và trong thời gian tới.

Vai trò của lực lượng thực thi pháp luật trên biển trước yêu cầu quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, đảo

Nhìn lại tình hình khai thác, sử dụng và quản lý biển, đảo ở nước ta thời gian qua cho thấy: mặc dù đã có nhiều cố gắng và đạt được những thành tựu nhất định, nhưng về tổng thể, khai thác tiềm năng biển để phát triển kinh tế vẫn còn những hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu góp phần đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi tụt hậu phát triển. Cơ cấu ngành nghề kinh tế biển chưa hợp lý, mới phát triển một phần ở vùng biển quốc gia, chưa chuẩn bị điều kiện và thể hiện rõ nét tư tưởng “vươn ra biển lớn”, gắn kết đất liền với đại dương để giải quyết bài toán phát triển mang tầm thời đại và chiến lược sinh tồn của dân tộc. Muốn phát huy mọi tiềm năng từ biển với tầm nhìn dài hạn, cần chú trọng giải quyết tốt các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển; với bảo đảm an sinh xã hội biển đảo; với sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển; với phát triển đảo và vùng nội địa; với mở rộng hợp tác quốc tế và giữ vững chủ quyền biển, đảo theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn vùng biển đất nước. Về mặt quản lý, tài nguyên biển và ven biển được nhìn nhận như là các hệ thống tài nguyên (trong đó có hệ sinh thái) có tính chia sẻ (shared resources), phân bố theo không gian 3 chiều (bề mặt biển, trong khối nước biển, bề mặt đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển), và luôn là đối tượng sử dụng của nhiều ngành (đa ngành). Tuy nhiên, trên thực tế, biển và hải đảo nước ta vẫn chủ yếu được quản lý theo ngành (sectoral management). Hiện có khoảng 15 bộ, ngành, lĩnh vực dịch vụ và 28 địa phương ven biển đang khai thác và trực tiếp quản lý biển, đảo ở mức độ khác nhau theo thẩm quyền được Chính phủ giao. Đặc biệt, vẫn còn thiếu vắng một cơ quan quản lý nhà nước và lực lượng thực thi pháp luật trên biển đủ mạnh để quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, đảo như tinh thần của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã chỉ ra. Việc tiếp cận quản lý biển theo ngành và thiếu các công cụ (chính sách, kỹ thuật) quản lý liên ngành, liên vùng, liên cơ quan trong khai thác, sử dụng và phát triển biển, đảo đã “kích thích tính tự phát, thiếu tính tổng thể và toàn diện” trong các phương án phát triển. Điều này dẫn đến hiệu quả phát triển kinh tế biển đạt được còn thấp so với yêu cầu và thiếu bền vững. Nguồn tài nguyên biển - ven biển nhanh chóng cạn kiệt, môi trường ngày càng bị suy thoái và ô nhiễm, mâu thuẫn lợi ích (benefit conflict) trong quá trình khai thác, sử dụng biển, vùng ven biển và hải đảo giữa các ngành, giữa Nhà nước và người dân không những không giảm mà còn tiếp tục nảy sinh phức tạp. Để khắc phục tình trạng trên và góp phần triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, ngày 30/5/2007, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược biển nói trên. Theo đó, Chính phủ đã xác định các nhiệm vụ, nội dung cơ bản giao cho các bộ, ngành, địa phương liên quan quán triệt và triển khai trong thực tế. Một trong những nhiệm vụ được Chính phủ tập trung chỉ đạo là: từng bước hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách để thực hiện quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất đối với biển và hải đảo, trong đó có việc thực thi pháp luật trên biển. Theo tinh thần đó, tại Nghị định số25/2008/NĐ-CP ngày 03/4/2008. Chính phủ đã giao thêm cho Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) nhiệm vụ quản lý nhà nước về biển và hải đảo. Ngày 26/8/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 116/2008/ QĐ-TTg và Quyết định số 43/2014/QĐ-TTg giao Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam chức năng quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo. Ở 28 tỉnh, thành phố ven biển, nhiệm vụ này được giao cho Sở TNMT và thành lập các Chi cục biển/hải đảo trực tiếp giúp sở thực hiện nhiệm vụ này. Về bản chất, quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo không thay thế quản lý của các ngành, mà đóng vai trò điều chỉnh hài hòa và kết nối các hành vi phát triển (khai thác, sử dụng) của các ngành, lĩnh vực, địa phương, của những người hưởng dụng (user) biển, vùng ven biển và hải đảo trong phạm vi vùng biển chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Để quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo phải xây dựng, áp dụng và thực thi các giải pháp giải quyết vấn đề mang tính liên ngành, liên cơ quan, liên vùng, giải quyết các vấn đề “xuyên ranh giới/biên giới”, liên kết với cộng đồng và các bên liên quan (stakeholder) quản lý biển theo không gian (marine spatial management) dựa trên cách tiếp cận hệ sinh thái (ecosystem-based approach). Đích chung và cuối cùng của quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và đảo là: đảm bảo phát triển đa ngành (hài hòa lợi ích của các bên), sử dụng đa mục tiêu (tối ưu hóa lợi ích trên một đơn vị không gian) và bảo đảm đa lợi ích (các bên cùng có lợi) giữa Nhà nước, lĩnh vực tư nhân, các bên liên quan và cộng đồng địa phương trong quá trình khai thác, sử dụng các hệ thống tài nguyên, bảo vệ và bảo tồn môi trường biển, ven biển và đảo. Trong bối cảnh phức tạp ở Biển Đông và trước yêu cầu của công tác quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất đối với biển, đảo, cũng như để thực hiện nguyên tắc “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với biển đảo” nói trên thì vai trò, vị trí của lực lượng thực thi pháp luật cực kỳ quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định. Ở các nước trên thế giới, công tác thực thi pháp luật rất được coi trọng và lực lượng nòng cốt thực hiện thường giao cho Cảnh sát biển/ Tuần duyên (Coast-Guard). Ngoài ra còn có các lực lượng phụ trợ chuyên ngành khác, như Cứu hộ hàng hải, Kiểm ngư, Hải quan, Y tế, Bộ đội Biên phòng,... Ví dụ, ở Mỹ, người ta sử dụng chủ yếu LL CSB và một bộ phận bảo đảm hàng hải trong Hải quân Mỹ. Trong khi ở Trung Quốc đã sử dụng đến 5 lực lượng chấp pháp trên biển (thực thi pháp luật) như Hải cảnh, Hải giám, Ngư chính, Hải quan và Y tế với sự hỗ trợ đắc lực của Hải quân. Nhưng kể từ nhiệm kỳ của Tổng Bí thư Tập Cận Bình, Trung Quốc yêu cầu thống nhất quản lý về các vấn đề biển đảo và giao cho Hải cảnh là lực lượng chính yếu, đầu mối. Các quốc gia khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, các quốc gia biển trong ASEAN,…cũng có các lực lượng tương tự nhưng nòng cốt vẫn là Cảnh sát biển. Ở nước ta, cách đây vừa tròn 18 năm, Lực lượng Cảnh sát biển được thành lập đi vào hoạt động theo Pháp lệnh LL CSB VN được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 28/3/1998. Sự ra đời của LL CSB VN đánh dấu sự hình thành một lực lượng chuyên trách của Nhà nước “thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Cùng với Pháp lệnh LL CSB VN năm 1998 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008, Bộ Quốc phòng cũng đã tham mưu với Chính phủ và trực tiếp ban hành 34 văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm cho CSB VN có đầy đủ quyền hạn, phát huy được chức năng của mình trong quá trình hoạt động. Theo các đánh giá gần đây, sau 18 năm xây dựng, trưởng thành và thực hiện Pháp lệnh, LL CSB VN đã có những bước phát triển vượt bậc cả về quy mô tổ chức, phương tiện, lực lượng và khả năng hoạt động; qua thực tế, đã chứng tỏ được vai trò nòng cốt, đi đầu trong thực thi pháp luật, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn trên các vùng biển đảo của nước ta; được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin cậy, ủng hộ. Đến nay LL CSB đã xử lý hơn 12.600 vụ vi phạm hành chính trên biển, xử phạt hơn 6.600 lượt tàu thuyền vi phạm với tổng số tiền xử phạt lên tới hơn 38 tỷ đồng. Xử lý hàng nghìn vụ buôn lậu, gian lận thương mại, thu giữ khối lượng lớn hàng hóa buôn lậu trị giá hàng trăm tỷ đồng. LL CSB cũng đóng vai trò quan trọng trong tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển, nhất là đối với các vùng biển xa. Đã thực hiện hàng trăm vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn xa bờ, cứu hộ được hàng trăm phương tiện, thủy thủ, lai dắt hàng nghìn lượt tàu cá của ngư dân gặp nạn vào nơi trú ẩn an toàn, giúp ngư dân có chỗ dựa vững chắc khi hoạt động đánh bắt dài ngày trên biển. Đặc biệt, CSB VN đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng và các lực lượng khác thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên biển, tích cực hỗ trợ ngư dân, hỗ trợ các địa phương ven biển xây dựng thế trận phòng thủ biển đảo của Tổ quốc. CSB VN cũng đã thiết lập mối quan hệ song phương, đa phương với 7 tổ chức và 15 lực lượng thực thi pháp luật trên biển thuộc các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Kết quả hợp tác quốc tế đã bảo đảm cho CSB VN thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm có tổ chức, có yếu tố nước ngoài; đồng thời nâng cao vai trò, vị thế và trách nhiệm của Việt Nam là quốc gia ven biển đối với các nước trong khu vực và thế giới.

Một số hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với Lực lượng CSB VN

Sau 18 năm thực hiện, Pháp lệnh LL CSB Việt Nam (1998, 2008) đã tạo ra những thuận lợi cơ bản trong điều chỉnh hoạt động của CSB VN. Tuy nhiên, với những thay đổi của thực tiễn, Pháp lệnh đã bộc lộ những bất cập cần phải khắc phục để bảo đảm cho LL CSB thực thi có hiệu quả nhiệm vụ, chức năng của mình. Do đó, cần phải xây dựng và ban hành Luật CSB VN để tăng cường quản lý biển, đảo quốc gia bằng pháp luật, cũng như để hội nhập quốc tế sâu rộng và tiếp tục khẳng định “đẳng cấp” khu vực và quốc tế của lực lượng thực thi pháp luật trên biển Việt Nam. Đây cũng là ý kiến thống nhất của đa số đại biểu các cơ quan ban ngành, các tổ chức, các lực lượng tại Hội nghị Tổng kết việc thực hiện Pháp lệnh LL CSB VN vừa được Bộ Quốc phòng tổ chức. Điều 22 của Pháp lệnh LL CSB VN (2008) đã quy định nội dung quản lý nhà nước đối với LL CSB VN bao gồm: (1) Ban hành, tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về LL CSB VN; (2) Tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy LL CSB VN; (3) Tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ CSB VN; (4) Thực hiện chế độ, chính sách đối với LL CSB VN; (5) Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật thuộc lĩnh vực hoạt động của LL CSB VN; và (6) Hợp tác quốc tế. Các quy định này cần cụ thể hóa hơn nữa để làm rõ vai trò nòng cốt, chủ trì và quyết định của LL CSB trong thực thi pháp luật bảo vệ biển, đảo; góp phần quan trọng thực hiện nguyên tắc “thống nhất quản lý nhà nước về biển đảo” đã được quy định trong Luật Biển Việt Nam (2012) và Luật Tài nguyên và Môi trường biển và hải đảo (2015). Chừng nào lực lượng thực thi pháp luật trên biển của nước ta còn tiếp tục phân tán, nhiệm vụ chồng chéo/không phù hợp, còn để tình trạng “ôm việc” nhưng không làm hoặc không đủ năng lực thực thi thì đây là sự lãng phí lớn của Nhà nước. Có thể nói, xuất đầu tư cho các hoạt động trên biển rất cao và tốn kém, trong lúc khả năng đầu tư của đất nước còn rất hạn chế, hoạt động trên biển lại đòi hỏi một bản lĩnh mạo hiểm, mưu trí, sáng tạo mới đủ sức khống chế và chiến thắng các hành vi nham hiểm, liều lĩnh không chỉ của kẻ xâm lược mà còn của cả các đối tượng tội phạm, vi phạm luật pháp về khai thác, sử dụng biển, đảo. Đầu tư phát triển và trao nhiệm vụ như vậy cho LL CSB là hoàn toàn xứng đáng và phù hợp, và phải được thể chế hóa trong các quy định cụ thể của pháp luật. Đây cũng là bài học thực tiễn từ Trung Quốc khi vào năm 2012, họ đã thống nhất quản lý nhà nước về các vấn đề biển, đảo và giao cho Hải cảnh là lực lượng chính yếu, đầu mối. Để bảo đảm cho LL CSB đủ năng lực hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ và hội nhập quốc tế hiệu quả trong bối cảnh mới, cũng cần phải có các quy định cụ thể hơn nhằm xây dựng LL CSB tiến thẳng lên hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X. Một số quy định trong Pháp lệnh CSB hiện hành đã không còn phù hợp, nhất là các quy định về vai trò quản lý Nhà nước của Bộ Quốc phòng đối với LL CSB chưa thống nhất với sự điều chỉnh trong một số nghị định của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh CSB. Đó là chưa kể, một số quy định về thẩm quyền, hoạt động của LL CSB VN trong Pháp lệnh còn chưa cụ thể, làm ảnh hưởng đến quá trình triển khai, áp dụng vào thực tiễn. Trong Pháp lệnh cũng chưa quy định biện pháp nghiệp vụ của LL CSB, do đó thiếu tính thực tiễn khi triển khai, hiệu quả hoạt động bị hạn chế. Nước ta đang triển khai bước đầu cách tiếp cận quản lý thống nhất và tổng hợp đối với biển, đảo và phương thức quản lý biển theo không gian. Quản lý thống nhất về mặt Nhà nước cần một đầu mối chịu trách nhiệm trước Nhà nước về lĩnh vực được phân công, điều này không đồng nghĩa với việc “gom tất cả” về một “mối”, mà phân công, phân nhiệm rõ ràng trong khuôn khổ thống nhất quản lý ở cấp nhà nước. Vì thế, pháp luật cần quy định rõ: CSB VN là cơ quan đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về thực thi pháp luật trên biển để bảo vệ biển đảo; các cơ quan khác và địa phương thực thi pháp luật trong lĩnh vực chuyên ngành theo sự phân công của Chính phủ. Đồng thời cũng quy định rõ, cụ thể về cơ chế điều phối, phối hợp giữa LL CSB với các lực lượng thực thi pháp luật trên biển khác để giảm thiểu và tập trung đầu tư, tăng hiệu quả hoạt động và bảo đảm đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ trong bối cảnh nhân tai và thiên tai hiện hữu. Các quốc gia ven biển trong khu vực và trên thế giới đều đã ban hành Luật CSB hoặc Luật về Lực lượng thực thi pháp luật trên biển, quy định về LL CSB… Vì vậy, theo một số đại biểu nếu chỉ dừng ở hình thức Pháp lệnh CSB như hiện nay thì sẽ không tương đồng với thực tiễn lập pháp quốc tế, làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý đối với các quy định trong văn bản pháp luật liên quan đến những hoạt động mang tính đại diện cho Nhà nước của LL CSB VN. Như đã nói trên, cục diện Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, bị quân sự hóa và “quốc tế hóa”. Yêu cầu về bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông ngày càng cao. Đã đến lúc cần phải làm rõ đâu là lợi ích riêng, đâu là lợi ích chung trong các mối quan hệ song phương hay đa phương trên biển. Đã là lợi ích riêng thì phải kiên quyết bảo vệ và lợi ích chung thì phải khôn khéo vừa hợp tác vừa đấu tranh. Thực hiện chủ trương nhất quán giải quyết hòa bình vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông đã ghi trong Luật Biển Việt Nam (2012) và phù hợp với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng thì việc thực thi “chủ quyền dân sự” và bảo vệ chủ quyền vùng biển bằng biện pháp pháp luật do lực lượng thực thi pháp luật chuyên trách tiến hành phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra, cần rà soát kỹ lưỡng và đối chiếu các nhóm văn bản pháp luật khác về/liên quan đến biển, đảo để tránh chồng chéo và không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được phân công. Thí dụ, việc áp dụng các biện pháp công tác, biện pháp nghiệp vụ trong nắm thông tin, đấu tranh với tội phạm, các vi phạm trong khai thác và sử dụng biển, đảo,…của LL CSB hiện nay còn được thể hiện trong các nhóm văn bản pháp luật khác, dẫn đến sự không đồng nhất, chồng chéo, dẫn đến thực thi trong thực tế khó và hiệu quả thấp. Thực tế là, trong thời gian gần đây, Quốc hội đã ban hành một số luật liên quan đến biển như: Luật Biên giới quốc gia (2003), Luật Biển Việt Nam (2012), Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo (2015) và Chính phủ cũng đã ban hành một số văn bản để triển khai các luật nói trên. Cho nên, việc xây dựng Luật CSB VN là một yêu cầu thực tiễn cấp bách, nhằm đáp ứng các nhu cầu và đòi hỏi của thực tiễn pháp luật biển ở nước ta. Đồng thời, việc xây dựng Luật CSB VN cũng là sự tuân thủ quy định của Hiến pháp 2013 về bảo vệ quyền con người, quyền công dân nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc khi những vi phạm luật pháp quốc gia và quốc tế trên các vùng biển chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đang ngày càng tăng như hiện nay. Xây dựng Luật CSB VN cũng chính là một bước “nội luật hóa” các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên để khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh LL CSB, tạo cơ hội tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thực thi pháp luật trên biển.

Thay lời kết

Từ thực tiễn thực thi pháp luật quốc tế và ở Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh phức tạp ở Biển Đông cho thấy công tác thực thi pháp luật trên biển đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Trong các lực lượng thực thi pháp luật trên biển của Việt Nam hiện nay, CSB VN đóng vai trò nòng cốt và đầu mối. LL CSB cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động thực thi pháp luật trên biển, góp phần đảm bảo quản lý tổng hợp và thống nhất đối với biển và hải đảo của đất nước. Để phát huy tốt vai trò và thực hiện hiệu quả nhiệm vụ được giao, LL CSB phải được xây dựng chính quy, hiện đại với cơ chế phối hợp liên lực lượng và khả năng hội nhập quốc tế sâu rộng. Xây dựng Luật CSB VN là một đòi hỏi thực tiễn khách quan, nhằm quay trở lại giải quyết các vướng mắc trong thực tế thực thi pháp luật trên biển vừa qua, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách về biển của Đảng và Nhà nước, phù hợp với các quy định của Hiến pháp, thống nhất với hệ thống pháp luật của Việt Nam và có tính khả dụng cao; góp phần giải quyết các thách thức mới trong khu vực Biển Đông và xây dựng một khu vực hòa bình, thịnh vượng, bảo đảm an sinh xã hội./.

PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi - Đại học Quốc gia Hà Nội - Nguyên Phó Tổng cục trưởng, Tổng cục Biển và Hải đảo

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục gửi về banbientapcsb@gmail.com