Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc theo Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XIII

17/11/2025 03:20:00 PM

(Canhsatbien.vn) - 

Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) của Đảng đã quyết nghị, ban hành Nghị quyết số 44-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới. Nghị quyết đã cập nhật, đánh giá môi trường chiến lược mới, đề ra quan điểm, mục tiêu, phương châm và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu định hướng cho sự nghiệp BVTQ giành thắng lợi. Nghị quyết lần này vừa nhất quán, kế tục những quan điểm, chủ trương của các kỳ trước, đồng thời có sự bổ sung, phát triển những vấn đề mới, đáp ứng sự phát triển của tình hình. Bài viết tập trung đề cập những nội dung cơ bản và những vấn đề mới trong nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Nghị quyết.

Trước bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng; tình hình chính trị, an ninh quốc tế, khu vực, trong nước có nhiều biến động mau lẹ, phức tạp, khó đoán định; cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm ngày càng rõ nét; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn từ gay gắt đến mức độ quyết liệt, thậm chí có lúc đối đầu; vừa điều chỉnh chiến lược, các nước lớn đẩy mạnh tập hợp, lôi kéo lực lượng, thực hiện vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau; liên kết can dự, chi phối nội tình các nước khác. Các “điểm nóng”, xung đột vũ trang xảy ra ở nhiều nơi; xuất hiện hình thái chiến tranh, loại hình tác chiến, không gian chiến lược mới làm thay đổi phương thức chiến tranh và các mối quan hệ quốc tế. Thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cả thời cơ và thách thức, đặc biệt là tạo ra nhiều loại vũ khí, công nghệ hiện đại gây khó khăn cho sự nghiệp BVTQ của mọi quốc gia. Các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống nổi lên gay gắt và mở rộng phạm vi. Điều đó đòi hỏi phải có chủ trương, giải pháp hữu hiệu để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Trên cơ sở đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân BVTQ, kế thừa những vấn đề cơ bản của Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược BVTQ (năm 2013) và Đảng tiếp tục cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, phương châm BVTQ đề ra các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp BVTQ trong bối cảnh có nhiều biến động bất lợi, khó lường.

Nhất quán như Nghị quyết trước, Đảng tiếp tục xác định 6 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, nhưng thứ tự có sự điều chỉnh. Trong Nghị quyết năm 2013, nhiệm vụ giải pháp về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” kết cấu ở mục thứ tư, ở Nghị quyết lần này đưa lên mục thứ hai và bổ sung nội hàm rộng hơn. “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Điều này thể hiện nhận thức, tư duy ngày càng chính xác, sâu sắc hơn về vai trò của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân và tư tưởng “yên dân”, “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp BVTQ; nó cũng thể hiện sự nhất quán trong tư duy của Đảng từ quan điểm đến mục tiêu, phương châm cho đến nhiệm vụ, giải pháp về vai trò của nhân dân trong BVTQ thời kỳ mới.

Trong nhiệm vụ, giải pháp thứ nhất về Đảng và hệ thống chính trị. Nếu Nghị quyết trước chỉ đề cập về xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước thì lần này đã bổ sung cả thành tố “hệ thống chính trị”, để thấy rõ tính toàn diện trong tư duy của Đảng về BVTQ. Xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị vừa là mục tiêu của sự nghiệp BVTQ, vừa là nhiệm vụ, giải pháp hàng đầu để tiến hành BVTQ giành thắng lợi.

Nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu, chiếm dung lượng lớn, đề cập sâu hơn là nội dung “Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện, nhất là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước”. Nếu Nghị quyết trước đề cập khái quát, ngắn gọn thì lần này nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đề cập đầy đủ, toàn diện các mặt hoạt động của công tác xây dựng Đảng, bao gồm: Chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức bộ máy; tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; về cán bộ nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu; công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; công tác dân vận, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phương thức lãnh đạo của Đảng,... Trong đó, Đảng tiếp tục nhấn mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập trung vào 5 nội dung “Chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Nghị quyết đề cập sâu về nhiệm vụ bảo vệ Đảng trước hết là nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, cơ hội chính trị, chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; công tác bảo vệ chính trị nội bộ, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”,... Xây dựng về mặt tổ chức, Nghị quyết chỉ rõ “Xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trong đó tổ chức đảng là hạt nhân, nòng cốt”.

Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, Nghị quyết xác định rõ “Xây dựng, hoàn thiện chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài; có cơ chế bảo vệ, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung. Không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài; không để lọt những người không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”.

Nghị quyết lần này Đảng dành riêng một khổ đề cập về nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đồng thời cũng xác định rõ việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội với tư cách là các thành viên quan trọng trong hệ thống chính trị của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ.

Nhiệm vụ, giải pháp thứ hai: Nếu nghị quyết kỳ trước chỉ đề cập “Củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc” thì lần này xác định nội hàm rộng hơn, rõ hơn “Tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và BVTQ”. Trong nhiệm vụ này, Đảng ưu tiên hàng đầu là đề cập về dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân “Thực hành, phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân. Nâng cao hiệu quả cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, chú trọng dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Nghị quyết cũng xác định rõ nhiệm vụ đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm vai trò nòng cốt chính trị, tạo đồng thuận xã hội, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng xác định nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, kích động “ly khai”, “tự trị”, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng đặc biệt quan tâm việc giữ gìn, bồi đắp mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, thực sự trọng dân, gần dân, sát dân, tin dân, hiểu dân, lắng nghe, chia sẻ với dân, giúp đỡ dân, phải “thật lòng, thật tâm, thật tình” với nhân dân, quan tâm chăm lo đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”. Phải chú trọng thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, công tác dân tộc, tôn giáo, nhất là trên địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo.

Nhiệm vụ, giải pháp thứ ba: Nếu Nghị quyết trước đề cập “Phát tiển kinh tế kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giải quyết các vấn đề xã hội” thì lần này đề cập rõ và rộng hơn “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, toàn diện, bền vững; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh”.

Nhất quán với Nghị quyết Đại hội XIII, Nghị quyết lần này tiếp tục chỉ rõ định hướng phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ,... Điểm mới, phát triển hơn so với Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI là đề cập đầy đủ định hướng phát triển nền kinh tế, với tư cách là yếu tố trung tâm của tiềm lực quốc phòng, sức mạnh nền quốc phòng toàn dân. Phát triển hơn so với Đại hội XIII là bên cạnh đề cập chủ trương “phát triển nhanh, bền vững” có bổ sung nội dung phát triển đất nước “toàn diện”. Tính toàn diện của nền kinh tế có thể hiểu là trên tất cả các ngành, thành phần, các cơ cấu lĩnh vực, vùng, miền, vĩ mô, vi mô, trong nước, ngoài nước, kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn...; có “toàn diện” mới giúp phát triển nhanh và bền vững hơn.

Bên cạnh việc định hướng xây dựng, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, Nghị quyết lần này cũng định hướng các nhiệm vụ, giải pháp về triển khai thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh (QP, AN) trên 6 vùng chiến lược. Đảng cũng quan tâm định hướng về bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh công trình, hạ tầng quốc gia, giao thông, công trình ngầm, thủy lợi, thủy điện, viễn thông, năng lượng; quản lý, khai thác, sử dụng sân bay, bến cảng, công trình quân sự, công trình ngầm, lưỡng dụng.

Quán triệt các nghị quyết của Đảng đã ban hành, Nghị quyết cũng xác định nhiệm vụ triển khai thực hiện có hiệu quả các đề án, dự án về tăng cường QP, AN kết hợp với phát triển kinh tế - xã hội trên các hướng chiến lược, đề án xây dựng chuỗi đảo gần bờ thành các trung tâm kinh tế - khoa học - công nghệ - QP, AN, phát triển kinh tế biển, khu vực biên giới, hỗ trợ ngư dân bám biển; quản lý không gian biển quốc gia, hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và chuyên ngành về biển đảo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển và bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tổ chức, thực hiện tốt cơ chế thẩm định, giám sát, xét duyệt, cấp phép về mặt QP, AN đối với các chương trình, đề án kinh tế - xã hội.

Bám sát Kết luận số 45-KL/TW (17/11/2022) của Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII về định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 để quy hoạch tổng thể thế bố trí QP, AN kết hợp phát triển kinh tế - xã hội làm cho thế trận quốc phòng toàn dân luôn được củng cố, bổ sung phù hợp tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy và bảo vệ tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội. Nghị quyết cũng xác định nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, phát huy hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng, bố trí hợp lý các cụm dân cư trong khu vực phòng thủ ổn định, bền vững; hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp Quân đội, Công an thực hiện nhiệm QP, AN nhất là trên các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.

Điểm nhấn so với Nghị quyết lần trước là đưa định hướng phát triển nền công nghiệp quốc gia và công nghiệp QP, AN: Xây dựng nền công nghiệp quốc gia tự chủ, hiện đại, vững mạnh, lưỡng dụng; xây dựng nền công nghiệp QP, AN chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Xây dựng cơ chế, chính sách, đẩy mạnh đầu tư, phát triển khoa học - công nghệ trong lĩnh vực QP, AN. Điều này thể hiện rõ sự kế thừa, phát triển tư duy mới của Đại hội XIII về phát triển nền công nghiệp không những phục vụ kinh tế - xã hội và rất quan tâm đến phục vụ cho QP, AN, sự nghiệp BVTQ. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học - công nghệ của nền quốc phòng toàn dân.

Đối với nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI đề cập khái quát một số nội dung lớn về văn hóa, chưa đề cập sâu việc phát huy vai trò văn hóa cho sự nghiệp BVTQ, lần này, Nghị quyết đề cập khá toàn diện các lĩnh vực của nền văn hóa. Cái mới so với Nghị quyết trước là Đảng ta khẳng định xây dựng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng và hệ thống chính trị. Bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực để xây dựng và BVTQ. Tăng cường xây dựng văn hóa trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và các quan hệ xã hội khác (quân sự, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,...); xây dựng môi trường, chuẩn mực văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số, công dân số làm cho văn hóa hội tụ, lan tỏa và điều tiết sự phát triển bền vững đất nước. Tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Phát huy tối đa nhân tố con người và các nguồn lực cho phát triển văn hóa tương xứng với tăng trưởng kinh tế.

Nhiệm vụ, giải pháp về tăng cường QP, AN, BVTQ, Nghị quyết tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp QP, AN, bảo vệ Tổ quốc, đồng thời nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục QP, AN, chất lượng nguồn nhân lực; ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện trang bị QP, AN, công trình phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ và hệ thống phòng thủ dân sự đồng bộ, thống nhất; thực hiện tốt phương châm bốn tại chỗ “Chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ, hậu cần tại chỗ”.

Tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo phương châm, lộ trình Đại hội XIII đã xác định. Một điểm mới so với Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI là đưa nội dung đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, bổ sung, phát triển hệ thống lý luận về quân sự, QP, AN, nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh xã hội. Đây là nội dung được kế thừa, phát triển từ Nghị quyết Đại hội XIII.

Nhiệm vụ, giải pháp về đối ngoại, trên cơ sở đường lối đối ngoại, các nghị quyết, kết luận đã ban hành, Nghị quyết đã khái quát, tổng hợp, tiếp tục khẳng định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả (so với Đại hội XIII có bổ sung định hướng “hiệu quả”). Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước; không ngừng nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Thúc đẩy quan hệ song phương đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững lâu dài. Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt chẽ với đối ngoại song phương; phát huy vai trò thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Chủ động tham gia cơ chế đa phương về QP, AN theo tư duy mới về BVTQ. Chủ động giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Mở rộng, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và đối ngoại QP, AN. Kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ xung đột, chiến tranh BVTQ từ sớm, từ xa.

Điểm mới nữa là trong tổ chức thực hiện, Bộ Chính trị đã xác định rõ vai trò của Quân ủy Trung ương là chủ trì, phối hợp với các Ban của Đảng theo chức năng, nhiệm vụ để đôn đốc, kiểm tra, sơ tổng kết, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư việc thực hiện Nghị quyết. Mặt khác, lần này sau 3 ngày ban hành Nghị quyết, Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện; tổ chức hội nghị toàn quốc để phổ biến, quán triệt, học tập, tạo thuận lợi cho các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương tiến hành triển khai nhanh chóng, thống nhất, kịp thời, tiết kiệm được thời gian, công sức và ngân sách.

Nghị quyết Trung ương 8, khóa XIII về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới là tư duy mới, sáng tạo của Đảng về sự nghiệp BVTQ, là sự kế thừa, phát triển tư tưởng, quan điểm Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI, các chủ trương, định hướng của Đại hội XII, XIII; rút kinh nghiệm từ thực tiễn thành công và hạn chế sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI. Nắm vững nội dung cơ bản của Nghị quyết, nhất là các nhiệm vụ, giải pháp là cơ sở để cụ thể hóa sát đúng với chức năng, nhiệm vụ của các Ban, Bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị nhằm triển khai thực hiện thắng lợi Chiến lược BVTQ trong tình hình mới./.

Đại tá LÊ VĂN HƯỞNG

Viện Chiến lược Quốc phòng/Bộ Quốc phòng

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục gửi về banbientapcsb@gmail.com

Các tin liên quan